Mọi sự so sánh đều khiên cưỡng
Sau khi đọc
bài
viết của Nguyễn Đình Đăng trên talawas ngày 26.11.2005, tôi mới tìm đọc
bài của
Hoàng Lê trên VietNamNet ngày 21.11, và thấy có vài điểm xin được bàn
thêm để rộng đường dư luận.
Trước hết, về đại thể, tôi chia sẻ cảnh báo
ẩn trong bài viết của anh Đăng về những bài báo có tính chất «tôn vinh» người
này, người khác, thường thấy ở báo chí trong nước, trong đó có khá nhiều điều
đáng nói. Sự chính xác của thông tin là một trong những điều này. Tuy phải nói
cho đúng rằng đó là một vấn đề chung của báo chí, có thể nặng hơn ở những báo
chí độc quyền – dù là quyền chính trị như ở Việt Nam hay quyền kinh tế ở nơi
khác. Và đôi (nhiều) khi, nạn nhân của những thông tin sai lạc lại chính là
những người được (bị) «tôn vinh» đó. Thực ra, bàn về triết lý của những bài báo
kiểu đó theo tôi là một đề tài lý thú hơn. Tuy nhiên, bài viết ngắn này chỉ xin
tập trung vào vài khía cạnh liên quan tới ngạch giáo sư mà anh Đăng nêu lên nhân
bài viết của Hoàng Lê, vì đó cũng là đề tài chính trong bài của anh Đăng.
Anh Đăng đã trích trang web của Bộ Quốc gia Giáo dục Pháp, nhưng tiếc
rằng anh lại chỉ lấy trong đó thông tin về lương hướng của hai chức vụ (hay biên
chế) «maître de conférences» và «professeur» mà không nói rõ hơn rằng đó là
hai chức vụ thường trực (xin tạm dịch chữ «permanent», có lẽ chưa
hợp lắm ở đây)
duy nhất trong ngạch «cán bộ giảng dạy-nghiên cứu»
(«enseignant-chercheur») của đại học Pháp
[1] , kể từ đạo luật cải tổ giáo dục đại học Pháp cách
đây hơn 20 năm. Khác, và do đó không thể so sánh với hệ thống 3 chức vụ
«professor», «associate professor» và «assistant professor» của Mỹ.
Vậy
thì dịch các chức vụ đó như thế nào, đánh giá tương đương giữa chúng như thế
nào, là những vấn đề không đơn giản. Tôi vốn không thích lắm cái cụm từ «phó
giáo sư» (họ có là «phó» của ai đâu?) nên chẳng mặn mà gì khi phải dịch «maître
de conférences» là «phó giáo sư». Nhưng
nếu chỉ so hai hệ thống Pháp –
Việt, thì thấy dịch «professeur» là «giáo sư» và «maître de conférences» là
«phó giáo sư» có lẽ cũng không sai lắm (trừ khi đã có nghị định của chính phủ là
«phó giáo sư» chỉ được phép dịch ra tiếng Anh để tương ứng với «associate
professor» của Bắc Mỹ thì lúc đó mới đặt ra vấn đề tương đương giữa ba hệ thống
– vấn đề quá tế nhị và vượt sức của người viết bài này)
[2] . Còn so trình độ khoa học trung bình mà hệ đại học
của hai nước đòi hỏi khi bổ nhiệm một «maître de conférences» (Pháp) và khi
phong hàm cho một «phó giáo sư» (Việt Nam) thì… tuỳ!
Tôi chỉ có chút
kinh nghiệm ở Pháp
[3] nên không dám lạm bàn. Chỉ xin nói thêm mấy thông
tin như sau:
Nhà báo Hoàng Lê hơi liều khi khẳng định rằng ở các đại học
Pháp, mỗi vị trí PGS hay GS «
thường có khoảng 50 đến 100, thậm chí 200 hồ
sơ» (chưa kể việc ông đặt ra cái «
bằng postdoc » hoặc bày ra cái
việc «tính hệ số điểm» các bài báo hay bài trình bày tại các hội nghị, theo kiểu
quy định của Bộ Giáo dục Việt Nam). Tỉ lệ chọi này (số hồ sơ cho một vị trí) rất
khác nhau giữa các ngành (nhiều ngành tỉ lệ này chỉ là 2, 3, dù là ở các đại học
danh tiếng), và cũng rất khác nhau giữa các đại học. Con số HL đưa ra sau đó
trong trường hợp của TS Phan Thị Hà Dương («
Năm đó, Khoa tin học ĐH Paris 7
cần tuyển 3 PGS mà có tới 100 đơn»), phù hợp hơn với những điều tôi biết qua
kinh nghiệm hơn mười năm làm việc xét tuyển cho khoa toán của trường tôi và theo
dõi công việc này ở các trường, khoa khác. Đây đã là một tỉ lệ rất cao, một
trong những tỉ lệ cao nhất theo tôi nhớ, nhưng chỉ hay xảy ra trong các ngành
như toán, tin học những năm gần đây, nhất là ở vài trường danh tiếng, do số sinh
viên đeo đuổi cái «nghiệp» nghiên cứu khoa học xuống quá thấp. Vì thế, ít ra
trong hai ngành này, đúng là việc xét tuyển rất căng.
Việc xếp thứ tự
các ứng viên trong vòng cuối lại thể hiện sự đánh giá khác nhau (căng cũng
một phần vì thế!) của các uỷ viên hội đồng xét tuyển về tiềm năng khoa
học của ứng viên, so với những dự án, phương hướng nghiên cứu mà các uỷ viên đó
muốn phát triển (đối với các ứng viên trẻ vào chức vụ «maître de conférences»,
có khi tiềm năng này chưa thể hiện trong danh sách những bài báo - vì từ khi bài
đưa cho một tạp chí tới lúc bài được đăng, khoảng thời gian khá xa, nhất là ở
các tạp chí danh tiếng -, mà ngay trong luận án tiến sĩ). Dĩ nhiên, điều này
không mâu thuẫn với việc những ứng viên được chọn thường là trong số những người
xuất sắc nhất của đợt tuyển.
Còn số bài báo được đăng cũng rất khác nhau
giữa các ngành khoa học, nên không thể có quy định hay «chuẩn» chung cho tất cả
các ngành. Trong ngành toán, một ứng viên chỉ có vài ba bài báo nhưng được chọn
làm
giáo sư ở độ tuổi 30 không phải là hiếm (không chỉ ở Pháp, theo tôi
biết). Nói như anh Đăng, rằng «
ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản ngày nay không thể có
chuyện một người mới 26 tuổi và chỉ với số lượng (chưa nói tới chất lượng) 8 bài
báo được đăng (hoặc đang được chờ đăng) lại có thể trở thành phó giáo sư tại một
đại học danh tiếng», e chưa phản ánh được thực tế đó. Ít ra, nếu có một
ngành mà các trường hợp «tài không đợi tuổi» không quá hiếm, thì đó chính là
ngành toán. Mà tài thì chỉ có thể đánh giá qua chất lượng các công trình. Số
lượng đôi khi là điều phù phiếm.
Tác giả
Hà Dương Tường là Giáo
sư toán tại Đại học Công nghệ Compiègne (Pháp)
© 2005 talawas
[1]Tham gia giảng dạy ở các đại học Pháp còn có một số
giảng viên theo hợp đồng, trong đó có các «ATER» (assistant temporaire
d’enseignement et de recherche) dành cho những người sắp hoặc mới xong luận án
tiến sĩ mà chưa có được một vị trí «maître de conférences», và một số giáo viên
trung học có bằng agrégé (ngày xưa trong Nam dịch là «thạc sĩ») được tuyển để
giảng dạy một số bộ môn ở hai năm đầu đại học. Ngoài ra, còn có những giảng viên
có kinh nghiệm về nghiên cứu và phát triển (recherche et développement) ở ngoài
đại học, thường được tuyển để giảng dạy một số bộ môn có tính ứng dụng nhiều hơn
tính hàn lâm. Tất nhiên, còn có các giáo sư thỉnh giảng được mời từ các viện
nghiên cứu, các trường đại học nước ngoài.
[2]Anh Đăng có trích một câu của từ điển mạng wikipedia
nói về «maître de conférences», là một biên chế mà nhà khoa học muốn tiếp tục sự
nghiệp hàn lâm có thể lấy «
sau luận án tiến sĩ hay tốt nghiệp một trường
lớn». Câu này sai, vì việc tốt nghiệp một trường lớn không nằm trong tiêu
chuẩn về bằng cấp «tiến sĩ hay tương đương» (được xét qua các công trình nghiên
cứu) để được bổ làm «maître de conférences». Ví dụ này cho thấy các thông tin
trên mạng không phải luôn luôn là chính xác, và việc xử lý các thông tin đó
không hề dễ!
[3]Hai nhiệm kỳ làm chủ tịch hội đồng xét tuyển «cán bộ
giảng dạy-nghiên cứu» (commission des spécialistes) trong ngành toán ở đại học
công nghệ Compiègne. Ở các đại học Pháp, các hội đồng này được lập ra theo các
khoa, gồm các giáo sư và «phó giáo sư» của khoa cộng với từ 30 đến 40 % giáo sư
được bổ nhiệm từ các trường khác. Hội đồng chỉ xét đơn của các ứng viên đã được
một uỷ ban cấp nhà nước (theo chuyên ngành) xét là đủ tiêu chuẩn khoa học cho
chức vụ được tuyển. Tiêu chuẩn tối thiểu cho «maître de conférences» là bằng
tiến sĩ hoặc tương đương. Nhưng đây không phải là điều kiện đủ. Tiêu chuẩn tối
thiểu cho các «professeur» là chứng chỉ có «quyền hướng dẫn nghiên cứu»
(habilitation à diriger les recherches), chính thức không phải là một bằng cấp
(diplôme), và trình độ thì tương đương với bằng «tiến sĩ nhà nước» (doctorat
d’état) nay đã bãi bỏ.