QUAN ÂM
CHỈ LỘ
Truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp
Minh họa của
Nguyễn Đình Đăng
Ngôi trường vùng cao ở lưng chừng
đồi, đơn sơ một ngôi nhà gianh vách đất,
một nửa là lớp học, một nửa là chỗ ở
của hai cô giáo Thu và Kiểm. Lớp học thường
xuyên xê dịch có từ 7 đến 20 học sinh của năm
dân tộc là Mông, Thái, Nhắng, Dao và Lô Lô.
Hai cô giáo Thu và Kiểm đều quê ở Tiền
Hải Thái Bình, bố mẹ là dân chài vùng biển.
Hai cô học hết cấp 2 phổ thông trung
học thì đi học một lớp sư phạm nâng cao
hai năm. Tốt nghiệp ra trường, Đoàn
thanh niên có phong trào “thắp lửa ánh sáng vùng cao”, họ ghi
tên tham gia và mười ngày sau họ có mặt ở ngôi trường
này.
Ai
lên
Tết
năm ngoái, tôi có dịp lên
Chị
Hỷ, vợ anh Lai (xuất thân thợ dệt) tính rất
chu đáo đã mua vé tàu hoả, thuê nhà, chuẩn bị thức
ăn chu đáo cho 10 ngày nghỉ Tết, mọi người
chẳng ai phải mó tay vào.
-
Không thiếu thứ gì! – Chị Hỷ vui vẻ bảo tôi
– Chú sẽ được ăn Tết
như ở nhà mình.
Gia
đình anh Lai có năm người: hai vợ chồng anh,
cháu Quang đang du học ở Mỹ (đại học
Duke) về nghỉ Tết, cháu Vân đang học lớp 12
trường Chu Văn An Hà Nội và Yên, cô "ô-sin" người
vùng đạo gốc Bùi Chu.
-
Chú là nhà văn danh tiếng nhưng nghèo – Anh Lai bảo tôi –
Nghề của chú chẳng phải là nghề. Đó là nghiệp chướng. Đọc, đi,
viết là ba công đoạn mà tay nhà văn
nào không làm được thì đừng nói gì đến có
tác phẩm. Không đọc, không đi thì viết
thế nào? Nhưng không có tiền thì chịu.
Chuyến đi Sa Pa này vợ chồng tôi “bao” hết, chỉ
mong chú viết được cái gì hay hay đóng góp cho đời.
Vợ chồng tôi chọn
Tôi nghe. Tôi đi
cũng là vì nể anh Lai. Nhân từ gì tôi
không biết, ngày trẻ tôi đã ở miền núi Tây Bắc
10 năm, miền núi tôi chẳng lạ gì. Nhưng thôi,
một chuyến đi du lịch, một cái Tết xa nhà cũng
tốt cho tôi: ở nhà toàn khuôn mặt cũ, những đứa
con tôi đã lớn, chúng không cần tôi nữa, tôi và danh tiếng
hão của tôi đã là gánh nặng cho cả gia đình...
Chúng
tôi lên
Ở
-
Nếu ông thích mấy thứ này, tôi đưa ông vào bản
Tả Van hay vào Bản Hồ, ở đấy có thể có
người còn có nhiều thứ hay.
Tôi lưỡng lự.
Anh ta nói thêm:
-
Càng đi xa càng nhiều thứ quý.
Tôi
hỏi:
-
Ở
-
Suối Thầu.
- Đi có khó không?
-
Cũng không khó lắm.
Tôi xem đồng hồ, thấy còn sớm
bèn quyết định đi chơi xa một chuyến.
Anh lái xe bảo tôi:
-
Chắc ông sẽ không thất vọng vì chuyến đi này.
Tôi
ngồi lên xe. Chiếc xe
“Min-khơ” dã chiến phóng nhanh như gió. Rừng
núi đại ngàn trùng điệp mở ra trước mắt.
Tôi chưa bao giờ đi một cuốc xe
kinh hoàng như thế. Một bên là vực
sâu, một bên là núi cao. Thỉnh thoảng,
một trận mưa địa hình đột ngột
trút xuống. Gió lồng lộng thổi.
Tôi đã có thâm niên ở miền núi nhiều năm nhưng
quang cảnh hùng tráng thế này thì không phải miền núi nào
cũng có. Những viên sỏi bắn vào hai bên lốp xe rào rào. Anh lái xe ôm, chắc
đã quen đưa khách đi du lịch phiêu lưu thế
này, chỉ chăm chú nhìn về phía trước, tôi nghĩ
nếu tôi ngã xe có khi anh ta cũng chẳng biết gì.
Đường
vào Suối Thầu đi xe máy cũng hơn
5 tiếng đồng hồ. Anh lái xe ôm
bảo tôi:
-
Theo tôi, tốt nhất là ông nên nghỉ lại đây đêm
nay. Tôi có thể chỉ cho ông vài nơi nghỉ
trọ. Bọn Tây du lịch cũng hay làm thế. Bọn
“gai” (tour – guide: hướng dẫn viên du lịch) người
Mông vẫn dẫn họ vào đây như cơm bữa. Giá nghỉ trọ ở đây cũng mềm, chỉ
khoảng độ 10 đồng bạc là cùng.
Tôi
nghe lời chỉ dẫn của người lái xe ôm. Anh ta dẫn tôi vào trong ngôi
trường học mà tôi đã kể ở đầu câu
chuyện. Hai cô giáo rụt rè ra đón vẻ rất băn
khoăn. Tôi tự giới thiệu về
mình. Cô giáo thấp lùn, có khuôn mặt vuông vức tên là
Kiểm mắt sáng lên:
-
Em đã từng nghe đến tên ông. Nếu
ông đúng là nhà văn thì em cho trọ.
Cô
giáo người gày gò, trắng trẻo tên là Thu hỏi anh lái
xe ôm:
-
Anh về
Anh
này trả lời:
-
Tôi về thôi. Mai lại vào. Ông nhà văn này muốn tìm đồ cổ, có gì
nhờ hai cô giáo tìm giúp.
Họ
chia tay nhau. Hai cô giáo dẫn tôi vào lớp
học, ở đấy đang có một cô bé người
Mông ngồi tập viết chữ. Hai cô giáo loay hoay kê những
chiếc ghế băng sát lại, sau đó họ mang đệm
và chăn bông vào. Ngay lập tức, tôi đã
có một chiếc giường ngủ hảo hạng.
Tôi lấy điện thoại di động gọi về
Sa Pa, anh Lai và chị Hỷ trách tôi nhưng hai cháu Quang và Vân
thì thích, hứa có thể sẽ vào Suối Thầu với
tôi.
Đêm hôm đó, bên bếp lửa, tôi được
nghe hai cô giáo Thu và Kiểm kể về cuộc đời
của họ.
-
Thế hai cô ở đây được mấy năm rồi?
- Được 6 năm.
-
Thế Tết này các cô có về quê ăn
Tết hay không?
Cô
Kiểm thở dài:
-
Cái Thu thì 27 Tết mới về. Còn em... Tết
này chưa chắc em về được.
-
Thế có năm nào các cô ăn Tết ở
đây hay không?
Cô
Thu bảo:
-
Tết năm nào em cũng về quê ăn
Tết. Em đang định bỏ việc, ở đây
chán lắm. Còn cái Kiểm, sáu năm rồi, năm
nào nó cũng ở lại. Năm nào nó cũng bảo:
“Tết này chưa chắc em về được”.
Cô Kiểm quay mặt về phía bóng tối,
giấu ánh mắt buồn buồn.
Tôi không tiện hỏi, bèn quay sang nói chuyện về phong cảnh
với khí hậu Sa Pa. Tôi cũng hỏi về các món đồ
cổ lưu lạc ở trong các gia đình người
dân tộc ở vùng cao này. Thế kỷ XVIII, Hoàng Công Chất
khởi nghĩa ở đồng bằng, bị triều đình
đánh đuổi lưu lạc lên đây, có nhiều gia đình
thổ hào đi theo. Đây cũng là vùng
buôn bán hàng lậu từ Vân Nam Trung Quốc sang. Vì thế, rất có thể có nhiều đồ cổ
lưu lạc ở đâu đấy rất quý giá.
Sáng hôm sau, cô giáo Thu chuẩn bị về quê.
Lớp học đã nghỉ, chỉ có vài ba đứa học
sinh thỉnh thoảng đến xin bài về học trong dịp
nghỉ Tết. Cô giáo Kiểm dặn dò chúng. Ngày
xưa, khi còn đi dạy học ở vùng núi Tây Bắc,
tôi đã hiểu tâm trạng của các thày cô giáo miền
xuôi lên dạy học ở miền núi vào những ngày này.
Lòng dạ rối bời cứ như lửa đốt, sắm
sửa quà Tết, gói ghém đồ đạc, mong chờ
kỳ lương cuối cùng trong năm, bóng dáng của người
thân cứ hiện rõ dần... Ôi tuổi trẻ phiêu lưu
và ngốc nghếch! Ngươi chẳng sợ gì gian khó,
chẳng sợ gì cô đơn, dòng máu chảy trong huyết
quản của ngươi mới mạnh làm sao, những
chân trời nào và ánh mắt nào vẫy gọi? Giọng cười
nào, tiếng hát nào, giấc mơ nào của ngươi cũng
đều nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết
hiến tặng cho cuộc đời, cho con người...
mà người thì bạc như vôi, còn đời thì ngắn...
Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả, những lớp người
kế tục nhau như những đợt sóng bên ngoài
trùng khơi...
Cô giáo Kiểm cho một học sinh dẫn
tôi đi vào trong bản. Phần
lớn các nhà ở đây đều nghèo, nhiều người
Mông, người Nhắng nghiện thuốc phiện.
Tôi rẽ vào một ngôi nhà trên núi, thấy một
người đàn ông người Mông trạc 50 tuổi đang
vật vã vì đói thuốc. Chị vợ
đang ngồi giã mèn mén. Thấy
tôi vào, họ cũng mặc kệ. Tôi
lân la hỏi chuyện người vợ. Tôi nhìn thấy trong chạn bát có một pho tượng
Phật nhỏ bằng đồng đen thui. Pho tượng
rất lạ, đó là hình hai mặt Quan Thế Âm Bồ
Tát ngồi trên toà sen đặt trên đống tiền và
trên đĩnh vàng, có mấy chữ Hán, tôi chỉ đọc
được bốn chữ: “Quan Âm chỉ lộ”. Tượng Quan Thế Âm tôi đã thấy nhiều,
nhưng tượng được đặt trên một đống
tiền và vàng thì chưa từng thấy. Tôi đoán đây là tượng của một thương
gia nào đó, có thể được đúc riêng nhân kỷ
niệm mừng sinh nhật hoặc mừng tân gia cho ai đó.
Pho tượng trông rất có thần, đường nét
tinh tế, không cổ lắm nhưng rõ ràng không phải tượng
mới. Trong ruột bức tượng, có lẽ
người ta có yểm bùa và cho vào đó những viên sỏi
kỳ lạ, lắc lên nghe lạo xạo.
Tôi hỏi người đàn bà, tỏ ý muốn
mua pho tượng. Người chồng
trừng mắt:
-
Không bán đâu. Nó là gia bảo đấy!
Tôi không gặng hỏi, tôi biết người
Mông tính rất dứt khoát. Tôi rất
ái ngại vì thấy tình cảnh của gia đình này thật
bi đát. Tôi lấy ra một món tiền
nhỏ tặng chị vợ. Chị ta không nhận,
nhìn về phía người chồng rồi nói:
-
Không lấy tiền đâu! Nếu có tiền
nó lại đi mua thuốc phiện.
Người
chồng đứng lên, giật phắt lấy số tiền
trên tay tôi, quát vợ:
-
Nó cho mình thì mình lấy chứ!
Chị vợ bối rối, không biết làm
sao cả. Chị ta nói với chồng:
-
Hết gạo rồi! Cũng không có thịt mà ăn Tết nữa!
Người chồng không nói năng gì, khoác
chiếc áo bông cũ đi ra. Chị vợ bảo
tôi, vẻ bực mình thực sự:
-
Ông hại nó rồi. Nó sẽ đi đến mai mới về!
Tôi nhớ mãi ánh mắt chị.
Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của
những người phụ nữ đau khổ, rất
nhiều ánh mắt tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà
chẳng thấy gì, nó không đủ sức lưu lại
hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật
gì. Không biết những người chồng, người
con, những người thân của họ đã làm những
gì để làm cho nó khô kiệt, đã làm mất hết đi
vẻ tinh anh trong ánh mắt kia? Cuộc đời
con người nào nhiều nhặn gì, ai trong số chúng ta đã
được yêu thương, đã được vuốt
ve bởi những ánh mắt chân tình tự nhiên không hề
vướng bận sân si vụ lợi?
Tôi quay trở về trường học,
lòng thoáng buồn. Anh lái xe
hôm qua đã quay trở lại, chuẩn bị chở cô
giáo Thu ra
Anh
lái xe hỏi tôi:
-
Ông có về không?
Tôi
bảo:
-
Tôi muốn ở lại. Nếu được,
ngày mai anh vào đón tôi.
Anh
lái xe cười:
-
Tôi biết ngay mà...
Buổi
chiều, cô giáo Kiểm và cô học trò người Mông (sau
này tôi biết tên nó là Giàng Seo Mẩy) loay hoay dọn dẹp,
quét dọn xung quanh ngôi trường đón Tết. Cô giáo Kiểm
mang cờ ra, treo lên cái cột ở giữa sân trường.
Chập tối, lúc chúng tôi chuẩn bị ăn
cơm thì có khách đến. Tôi đoán đấy
là chồng hoặc người nhà cô Kiểm. Người đàn ông này tên Công, trạc 50 tuổi,
dáng điệu phong trần, như ở nơi rất xa
xôi đến. Cô Kiểm mừng rỡ, đun nước
nóng cho ông ta ngâm chân, săn sóc ông ta từng ly từng tí.
Trong
bữa cơm ông ta bảo cô giáo Kiểm:
-
Anh chỉ ở đây với em đến mồng 1 Tết.
Sáng mồng 2 Tết anh phải đi rồi.
Cô
Kiểm bảo:
-
Tuỳ anh. Anh ở bao lâu cũng được.
-
Nếu anh không lên, em có về quê ăn Tết
hay không?
-
Em không biết. Tết này chưa chắc em về được
Ăn cơm xong, người
đàn ông rủ tôi ra ngoài ngồi hút thuốc. Ông ta hỏi:
-
Có phải ông là nhà văn viết cái gì đó về hoa thủy
tiên phải không?
Tôi
bảo:
-
Phải!
Ông
ta bảo:
-
Tôi có nghe loáng thoáng về ông. Ông là nhà văn nổi
tiếng, đã đi ra nước ngoài nhiều lần.
Tôi
bảo:
-
Phải!
Ông
ta nói:
-
Tôi cũng đã đi ra nước ngoài nhiều lần. Càng đi, càng thấy thương nước Việt
Tôi hỏi ông ta về quan hệ của ông ta
với cô giáo Kiểm. Ông ta thở dài:
- Đấy là người mà tôi yêu dấu vô
cùng. Tôi có vợ rồi, nhà
ở Lạng Sơn. Tôi biết Kiểm 3 năm nay rồi.
Năm nào tôi cũng về đây ăn Tết.
Kiểm đối với tôi đúng là “hồng nhan tri kỷ”.
Tôi được một người như
thế yêu thương thì chết cũng chẳng oán hận
gì.
Tôi
hỏi:
-
Ông biết cô ấy trong trường hợp nào?
Ông
ta bảo:
-
Cũng giống như ông. Tôi đi du lịch,
đúng hơn là tôi đi tìm cái chết. Hồi
ấy tôi làm ăn thất bại, gia đình tan nát, tôi rất
chán đời. Tôi lên
Tôi
bảo:
-
Ông có vẻ như một người hạnh phúc.
Ông
ta bảo:
-
Cám ơn ông. Cũng còn tuỳ thuộc cách
nhìn. Từ khi biết Kiểm, tôi sống
tốt hơn lên. Tôi yêu mến tất cả
mọi người, tôi làm nhiều việc có ích cho đời.
Là nhà văn, ông nên viết về tình yêu của
người phụ nữ. Họ yêu thương
đàn ông chúng ta, làm cho thế giới này tốt đẹp
lên nhiều.
Tôi hỏi về công việc của ông ta.
Ông ta nói:
-
Tôi là thương nhân. Tôi buôn bán ở Hồng Kông, ở Mỹ.
Có lần tôi sang cả Thuỵ Điển. Kiểm
như một vị Bồ tát chỉ đường.
Tôi buôn bán không phải vì tiền mà vì điều
thiện, vì quan hệ với con người.
Tôi chăm chú nhìn Công, thấy ông ta là người
thành thực. Tôi rất ngạc
nhiên, ngẫm nghĩ mãi về hình ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ,
dạy học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại là
nguồn cảm hứng cho gã Đôn Kihôtê giang hồ quốc
tế, khiến ông ta làm được những việc động
trời. Thế gian này thật diệu kỳ! Trong muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều
diệu kỳ nhất.
Tôi ở Suối Thầu đến hết
ngày hôm sau. Tôi được biết Giàng
Seo Mẩy, cô học trò người Mông chính là con gái của
hai vợ chồng người Mông mà tôi đã gặp. Mẩy
ở với cô giáo Kiểm, cô bé giỏi tiếng Anh, nổi
tiếng là một “gai nhí” ở khu du lịch
Anh
lái xe ôm vào Suối Thầu đón tôi. Ngôi biệt thự mà chị Hỷ thuê riêng đã được
trang hoàng lộng lẫy. Tối hôm đó,
chị Hỷ làm tiệc tất niên. Sâm-banh
được mở ra, ai nấy đều vui vẻ.
Rượu
ngà ngà say, anh Lai hỏi tôi:
-
Chú là nhà văn, chú có biết câu “nhà văn là tai mắt của
nhân dân” không? Chú viết văn, điều gì
hướng đạo ngòi bút của chú?
Cháu
Quang học ở đại học Duke, bang
Anh
Lai nói:
-
Tôi nhớ trong Kinh thánh, Chúa đã từng mắng các văn
sĩ rằng họ chỉ nhắm miếng ngon, khát khao thụ
hưởng. Trong các hội đoàn, họ ngồi ghế
hạng nhất... Chúa không mắng những người
làm nghề nghiệp khác. Nghề của
chú không phải là nghề, nó làm rối tinh trật tự.
Tôi
thấy khó trả lời, miếng cơm ăn
đắng ngắt. Anh Lai là nhà chính trị,
anh không biết rằng tôi cũng đã từng làm nhiều
nghề kiếm sống. Định mệnh của
tôi không phải do tôi quyết định. Tuy
nhiên, tôi không tranh cãi với anh. Hôm nay tôi
là khách mời. Đầu óc tôi vẫn còn đang vấn
vương hình ảnh những người sống rất
giản dị ở bản Suối Thầu, họ không bao
giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại
sao thế kia? Cô giáo Kiểm, một cô
gái bé nhỏ sinh ra ở biển, sống 6 năm trời với
các em bé người Mông, người Nhắng, đồng
lương dạy học chẳng đáng là bao; ngồi giữ
ngọn lửa tình yêu cho một tay giang hồ dọc ngang
trời đất. Rồi hai vợ chồng người
Mông nghiện hút, họ chẳng bao giờ đi xa khỏi
bản của mình...
Cháu Quang và cháu Vân cho xem những bức ảnh
chụp ở bãi đá cổ Hầu Thào.
Trên các hòn đá có các hình khắc kỳ dị.
Ai đã viết lên đấy? Liệu
thời tiền sử có một tay văn
sĩ rồ dại nào đi làm chuyện ấy hay không?
Ăn xong, tôi về phòng, thấy
cháu Yên, cô gái "ô-sin" đang ngồi ăn cơm thầm
dưới gầm cầu thang. Tôi hỏi:
-
Sao cháu không ăn cơm cùng với mọi
người?
Yên
nói:
-
Cháu quen rồi!
Chị
Hỷ đi ra bảo tôi:
-
Lệ ở nhà này là thế. Tôi vốn có “tay”
nuôi "ô-sin". Dân chủ thì dân chủ.
Nhưng trật tự cần hơn dân chủ.
Anh yên tâm đi, một mình nó một mâm, cũng
đầy đủ sơn hào hải vị.
Sáng
hôm sau tôi ra chợ Sa Pa. Anh lái xe ôm hôm trước
gặp tôi. Tôi vào chợ, mua một bao gạo
50 ki lô và một đùi thịt lợn, nhờ anh ta chở
vào Suối Thầu tặng gia đình của Giàng Seo Mẩy.
Anh lái xe cười:
-
Thế này thì nhà này năm nay ăn Tết
to rồi!
Tôi thấy vui vui. Chừng mấy năm
nay, tôi không còn nhiều lòng ham hố “kiếm chác” cho mình,
nhiều khi cho được người khác cái gì thích hơn
được nhận. Tôi không giàu có nhưng
cũng chẳng nghèo. Tôi không có nhiều người
thân, nhiều bạn bè. Tôi đã trót rào quanh tôi hàng rào danh tiếng,
đấy cũng không phải do ý thức của tôi chủ
định, rất nhiều các thói đời xô đẩy
khiến tôi lâm vào tình cảnh trớ trêu như thế. Nhiều khi, tôi rất cô đơn ngay giữa nhà
mình. Những bạn bè cũ cũng ngại gặp
tôi, tôi cố gắng phá đi mặc cảm tự ti vì
không thành đạt ở trong lòng họ mà không phá được.
Nhiều lần, tôi nhớ lại những ngày gian khó thuở
tôi còn đi dạy học ở trên miền núi Tây Bắc
xa xôi, tôi chỉ là một thày giáo tiểu học vô danh, tôi
như viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng
chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào
cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo
ca hát những lời vô nghĩa bất tận. Đêm chẳng bao giờ là dài, ngày chẳng bao giờ
là ngắn. Những ngôi sao xa xôi trên bầu
trời giục giã vẫy gọi tôi. Tôi sống, tôi sống
như cô giáo Kiểm, như Giàng Seo Mẩy, như người
đàn bà Mông kia ở bản Suối Thầu, tôi chẳng
bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại
sao thế kia... Lúc ấy, tôi chưa có ý thức
đi tìm ý nghĩa cuộc sống cho mình.
Ngày 30 Tết,
Tôi đi lững thững về nhà.
Trước cổng biệt thự, tôi ngạc
nhiên nhìn thấy người đàn ông người Mông nghiện
hút ở bản Suối Thầu mà tôi đã gặp đang
ngồi ở đó. Chị Hỷ chạy ra bảo
tôi:
-
Người này chờ chú suốt cả buổi chiều. Tôi đuổi nhưng lão ấy không đi. Không biết là có chuyện gì.
Người
đàn ông người Mông ngồi ủ rũ
nhắm mắt lại như người ngủ gật.
Trông thấy tôi, ông ta đứng dậy, mắt sáng hẳn
lên. Ông ta hỏi tôi:
-
Mày gửi cho tao gạo và thịt à?
Tôi gật đầu.
Ông ta bảo tôi:
-
Vợ tao rất thích. Nó cám ơn mày!
Thấy chuyện lạ, anh Lai và hai cháu Quang,
cháu Vân cũng chạy ra xem. Người đàn
ông người Mông lấy ra trong gùi một bọc vải
nhỏ giúi vào tay tôi. Ông ta nói:
-
Cái này của mày!
Nói xong ông ta quay đi, chẳng chào ai cả.
Tôi nhìn theo người đàn ông người
Mông bước đi loạng choạng, áy náy vì không hiểu
làm sao ông ta lại có thể đi được về nhà.
Chị
Hỷ đỡ lấy bọc vải ở trong tay tôi mở ra. Chúng tôi sững
sờ vì đấy chính là pho tượng “Quan Âm chỉ
lộ”. Tôi không thể tin ở mắt
mình, càng không ngờ lại có phúc có pho tượng ấy.
Mọi người trong nhà anh Lai xuýt xoa, ai cũng sờ nắn,
xem xét, không muốn rời tay.
Buổi tối, dưới ánh đèn pho tượng
trông thật rạng rỡ. Xem xét kỹ, ai cũng
thấy rõ ràng đây là một pho tượng quý. Ở dưới đĩnh vàng, có hình Thái thượng
lão quân đắp nổi và chữ “Bình an lộ”.
Ý nghĩa của pho tượng là hãy đi trên con đường
bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường
mà Quan Thế Âm Bồ tát chỉ lối đưa đường.
Anh Lai và chị Hỷ áng chừng đây là pho
tượng đồng có thể có từ thời nhà Thanh
Trung Quốc. Tôi không nghĩ thế bởi
xem xét kiểu chữ khắc trên đó thì có thể nó có muộn
hơn. Sau phong trào Ngũ tứ và Cách mạng
Tân Hợi ở Trung Quốc, người ta cải cách chữ
Hán. Lúc này tinh thần dân tộc của
người Trung Quốc lên cao, nhiều thương gia xuất
hiện cố gắng vươn ra thế giới. Rất có thể đây là pho tượng của một
thương gia thành đạt thời ấy. Song, đây cũng có thể là pho tượng của
một người Việt
Đêm 30 Tết, chúng tôi ngồi đón giao thừa.
Pho tượng đặt giữa bàn ăn
thắp nến. Một bầu không khí thiêng liêng và bình an làm cho ai nấy đều xúc động,
muốn xích lại gần nhau hơn.
Anh Lai chúc mừng tôi.
Anh nói:
-
Năm mới, “quý vật gặp quý nhân”. Chắc là con đường
phía trước của chú sẽ bình an
may mắn.
Tôi cười như mếu.
Tôi không còn trẻ. Tôi không
hy vọng gì nhiều ở phía trước. Với tôi từ lâu “cuộc chơi đã kết
thúc rồi”. Tôi ngẫu nhiên có pho tượng
này, thực sự thâm tâm tôi cũng chẳng cầu. Phúc hoạ thường vẫn đi kèm như
hình với bóng. Ý nghĩa phù du của cuộc
sống cho đến một lúc nào đó ai cũng hiểu
ra. Thường thường, hiểu ra
thì đã muộn rồi. Trời xanh kia
vẫn trớ trêu, được mất ở đời
có gì quan trọng?
Tôi nói điều ấy với anh Lai, chị
Hỷ. Ai cũng cười tôi, cho tôi là người “bi
quan chủ nghĩa”. Ừ thôi
cũng được, chúng ta hãy sống, chấp nhận
nhau, yêu thương, làm sao mỗi ngày ta sống sẽ là một
ngày hoan lạc, ở đấy chỉ có nụ cười
thân thiết và những lời nói chân tình với nhau.
Chị Hỷ lấy tiền ra mừng tuổi
mọi người. Chị nói với tôi:
-
Nếu chú bán pho tượng thì tôi mua đấy!
Tôi cười. Tôi
thấy khó xử. Nếu anh chị thích thì tôi tặng
lại, “quý vật gặp quý nhân”, cũng là một lẽ...
Anh Lai trầm ngâm, lắc đầu:
-
Định mệnh của chú... Chắc là nghiệp chướng
gì đây! Chúng tôi không làm thế được!
Mọi người uống rượu
sâm-banh, chúc tụng nhau rồi đi ngủ.
Pho tượng vẫn đặt trên bàn.
Ngày mồng 1 Tết, cả nhà anh Lai với
tôi đi dạo phố phường, chúc Tết bất cứ
ai gặp trên đường. Nhìn thấy gia đình
anh Lai ríu rít, tôi bỗng giật mình:
- Ngày Tết là ngày đoàn tụ gia đình.
Tại sao tôi lại ở đây?
Lòng tôi cồn cào như có lửa đốt.
-
Tết này chưa chắc em về được...
Câu
nói bâng quơ của cô giáo Kiểm văng vẳng bên tai. Tôi bật cười, nhớ lại mấy
câu thơ cũ của một nhà thơ mà tôi yêu mến:
Quê người đắng khói quê người
cay men...
Không yêu thì thực dễ như không!... (1)
Đời
người cầm bút xưa nay mấy người thanh thản?
Khúc đoạn trường, mấy ai hiểu
rõ nỗi lòng của mỗi một người?
Chiều hôm ấy, sau bữa cơm, ai nấy
đều giật mình vì phát hiện ra pho tượng “Quan
Âm chỉ lộ” bỗng nhiên biến mất.
Tất cả nháo nhác đi tìm. Anh Lai rất bực, đập vỡ cả lọ
hoa. Không khí ngày Tết trở nên ảm đạm.
Thật vô lý quá, ngôi biệt thự này có tường
bao quanh, không ai ra vào. Đồ đạc
trong nhà không mất thứ gì. Tại sao
bức tượng không cánh mà bay?
Anh Lai gọi từng người một vào
phòng cật vấn. Anh tỏ
ra rất bực. Cháu Quang, cháu Vân bị xúc phạm,
phát khóc, bỏ đi, tối cũng không về. Tất cả
nghi ngờ đổ vào cháu Yên, cô bé "ô-sin" tội
nghiệp. Cô bé gọi tên Chúa, thề thốt đủ điều.
Chị Hỷ lục soát các túi đồ đạc,
áo quần của nó. Tôi cố can gián nhưng không làm
sao ngăn được sự giận dữ của hai vợ
chồng anh Lai. Sáng mồng 2 Tết, chị Hỷ
tống cổ cháu Yên, mua vé tàu hoả bắt nó trở về
Hà Nội. Những ngày nghỉ Tết
còn lại trở nên khó chịu vô cùng. Ngày
mồng 4 Tết, anh Lai họp mọi người trong nhà,
quyết định trở về Hà Nội sớm hơn
dự định. Chị Hỷ thu
xếp đồ đạc, sai cháu Quang đi thuê xe ô tô chở
chúng tôi về Hà Nội ngay ngày hôm ấy.
Anh
Lai gọi tôi vào phòng, đóng cửa lại, bảo tôi:
-
Gia đình tôi thật có lỗi với chú. Sự
việc xảy ra thật không hay. Pho tượng quý bị
mất, tôi rất ân hận. Gia đình
tôi tự thấy phải có trách nhiệm bồi thường
cho chú...
Anh
Lai lấy tiền ra, bảo tôi:
- Đây là 1 nghìn đô-la.
Số tiền này không phải là số tiền
đánh giá giá trị pho tượng. Nó có thể hơn
thế, cũng có thể nó không bằng thế... Chú hiểu cho tôi, đây chỉ là một số tiền
mọn nhỏ nhoi, giải quyết một sự kiện
mọn không ra gì. Thực khốn nạn,
tôi không biết chứng minh danh dự của gia đình tôi
bằng cách thế nào với chú. Khi phải
dùng hạ sách này, chính tôi, tôi cũng rất nhục. Chú hiểu cho tôi, từ xưa đến nay tôi vốn
là người dứt khoát, rạch ròi, chính trực.
Tôi
bảo anh Lai rằng anh không nên làm thế, rằng pho tượng
này chỉ là quà tặng mà thôi, rằng tôi có được
cơ duyên làm bạn với gia đình anh thì không nên chỉ
vì một chuyện nhỏ con mà làm phương hại tình
cảm với nhau, rằng...
Anh Lai cố ép nhưng tôi không nhận.
Chúng tôi cãi nhau. Cuối cùng tôi nói, thực
ra cũng vì quá bực mình với thái độ kiên quyết
cố chấp của anh:
-
Thế anh có bao giờ nghĩ rằng chính tôi giấu đi
pho tượng này không? Có thể vì mục đích này hay mục
đích khác?
Anh
Lai cười nhạt, ngồi xuống ghế, lắc đầu:
- Thực ra, cũng
có lúc tôi đã nghĩ thế. Xin lỗi chú,
tôi cũng đã bí mật lục soát đồ đạc
của chú. Do nghề nghiệp, tôi đã phải tiếp
xúc, làm việc với đủ hạng người, xem
xét cả khía cạnh cao thượng lẫn lưu manh
trong con người họ, không trừ ai hết, kể cả
người thân. Không phải tôi không tin con người,
không phải tôi không nhân văn, chú đừng đánh giá tôi
thấp, rằng tôi là kẻ lạnh lùng. Có những công việc không nên để cho cảm
tính dự vào. Thú thực với chú, không một hạng
người nào mà qua được mắt của tôi, tôi
không đảm bảo 100% nhưng tới 90% thì tôi chắc
chắn, rằng tôi hiểu được họ và tôi kiểm
soát được họ, trừ một loại người...
Chú có biết không, chính là nhà văn, chính là những người
như chú...
Tôi
lặng người đi, bỗng nhiên thấy trong lòng
mình đắng ngắt. Anh
Lai đi đi lại lại trong phòng. Anh nói với
tôi:
-
Tôi không hiểu nổi một người viết văn
như chú. Chú là ai? Tại
sao chú lại viết ra những thứ làm cho mọi người
dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì?
Ai trao cho chú cái quyền năng ấy? Tư
cách của chú tôi gạt sang bên. Tôi không hiểu
sao mọi người vì nể một người như
chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt...
Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng
hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng
hão huyền, ghê gớm ấy ở mỗi một người?
Điều ấy là tốt ư? Không phải!
Xấu ư? Không phải! Từ
bản chất, tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm
phục những người như chú. Chú
có hiểu không?
Tôi ngạc nhiên nhìn anh Lai.
Hoá ra chuyến đi của tôi và gia đình
anh chỉ là cái cớ để anh tìm hiểu về tôi.
Tôi bật cười, hoàn toàn bất ngờ
vì sự trớ trêu trong hoàn cảnh đó của mình.
Tôi dứt khoát không nhận số tiền anh
Lai đưa cho. Tôi có những
nguyên tắc lương tâm của tôi. Tôi
nói với anh rằng thực ra số tiền này phải
thuộc về người đàn ông người Mông nghiện
ngập mà tôi ngẫu nhiên gặp gỡ, chính tôi cũng chẳng
biết tên tuổi ông ta là gì. Nếu có số
tiền ấy, ông ta cũng chỉ dùng để hút thuốc
phiện mà thôi, nó cũng chẳng giúp cho ông ta cải thiện
thêm gì số phận tồi tệ của mình. Câu chuyện về bức tượng “Quan Âm chỉ
lộ” tốt nhất là nên chấm dứt ở đây.
Tôi hy vọng tình cảm của tôi với gia đình
anh không phải chỉ vì một chuyện nhỏ nhoi thế
này mà sứt mẻ.
Chúng tôi về Hà Nội.
Thời gian trôi đi. Tôi cũng
nghĩ rằng câu chuyện không vui trong dịp Tết năm
ấy rồi cũng rơi vào quên lãng, chẳng còn ai nhớ.
Sáu tháng sau, tôi được biết anh Lai đã đi nhận
công tác mới, cháu Quang cũng sang bên Mỹ làm việc, cháu
Vân thì đi học đại học ở Anh. Một hôm, chị Hỷ đến nhà tôi chơi.
Tôi rất ngạc nhiên thấy chị mang đến
bức tượng “Quan Âm chỉ lộ”. Chị
nói:
-
Tôi đã tra hỏi con bé "ô-sin". Tôi đã
không nhầm. Nó là thủ phạm của
vụ trộm này. Chú có biết không, hạng người
như nó thì có dạy dỗ thế nào vẫn thế... Tôi đã
đuổi việc nó rồi!
Tôi
mời chị Hỷ ở lại ăn
cơm nhưng chị từ chối nói là rất bận.
Tôi ngồi một mình, buồn bã nâng bức tượng
lên tay xem xét. Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm
thầm quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện
hôm nào trong ngôi nhà thờ ở
Chị Hỷ ra về.
Tôi cẩn thận đặt bức tượng
Phật lên trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế
Âm Bồ tát hình như có một giọt nước mắt
trong veo lăn xuống khóc cho số phận
trớ trêu của mỗi con người.
Chắc
chắn là tôi sẽ còn quay trở lại Sa Pa. Phải trở
lại chứ! Vì sao ư? Vì Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất
giữ người!
Trên đất nước mình, đâu đâu
chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ
người? Hãy làm cho
mảnh đất này ngày càng phì nhiêu, tươi đẹp.
Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ thế.
Vậy còn bạn, bạn nghĩ thế
không?
Kìa Xuân đang về.
Lại một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm thanh trong lòng. Phải sống!
Phải sống cho ra giá trị cuộc sống con người,
dù cho thế nào đi nữa...