Nguyễn Đình Đăng trả lời phỏng vấn của Tiền Phong

 

Đêm 10/1/2008, trong khi ngồi ở quán cà-phê internet tại sân bay Nội Bài chờ lên tầu bay quay lại Tokyo, tôi nhận được qua email 20 câu hỏi phỏng vấn từ phóng viên báo Tiền Phong. Sau khi về Tokyo, tôi đã trả lời các câu hỏi đó và gửi lại cho phóng viên. Tôi không chắc Tiền Phong có đăng trả lời phỏng vấn của tôi không, song tôi biết chắc rằng nếu họ có đăng thì cũng sẽ không đăng nguyên vẹn, mà thế nào cũng cắt xén. Vì vậy tôi post lại dưới đây nguyên văn toàn bộ trả lời 20 câu hỏi phỏng vấn.

 

  1. Anh có thể cho biết mục đích của chuyến về nước vừa qua của anh? Mọi việc có được tốt đẹp như anh mong đợi? Anh đang có những dự án gì cộng tác với trong nước?

 

NĐĐ:

Vừa qua tôi về Hà Nội công tác 4 ngày từ 7 đến 10 tháng 1 năm 2009. Mục đích đầu tiên của chuyến đi là để dự buổi bảo vệ luận văn tiến sĩ, sau đó làm một seminar tại viện Vật lý trình bày các kết quả trong nghiên cứu gần đây của tôi. Được tin tôi sẽ về nước công tác, Ban Mỹ thuật Hiện đại (Ban MTHĐ) thuộc viện Mỹ thuật đã mời tôi nói chuyện với sinh viên Đại học Mỹ thuật (ĐHMT) Hà Nội về kỹ thuật vẽ sơn dầu.

 

Mọi việc đã diễn ra như tôi mong đợi.

 

Buổi bảo vệ luận văn tiến sĩ cấp cơ sở đã được tiến hành vào chiều 7 tháng 1. Người bảo vệ là anh Nguyễn Quang Hưng – nghiên cứu sinh Việt Nam mà tôi hướng dẫn tại Nhật từ năm 2006 trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Vật lý và Hoá học của Nhật (RIKEN) và một số trường đại học tại các nước đang phát triển ở Đông Á như Đại học Bắc Kinh, Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội. Theo chương trình này, các chuyên gia từ RIKEN, trong trường hợp này là tôi, tuyển chọn nghiên cứu sinh từ các trường nói trên để đưa sang RIKEN hướng dẫn nghiên cứu khoa học trong thời gian 3 năm. Toàn bộ chi phí trong thời gian nghiên cứu tại RIKEN là do phía Nhật Bản đài thọ. Trên cơ sở các kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu thu được, nghiên cứu sinh sau đó sẽ trở về bảo vệ luận án tiến sĩ tại trường đại học nơi mình đã đăng ký. Trong vòng hơn 2 năm nghiên cứu tại RIKEN, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của tôi, anh Nguyễn Quang Hưng đã công bố 4 công trình khoa học, trong đó 3 công trình đã được đăng tại tạp chí chuyên ngành có uy tín là Physical Review C của Hoa Kỳ. Các công trình đó cũng đã được báo cáo tại nhiều hội thảo khoa học quốc tế tại Nhật, Mỹ, Đức, Pháp, Italia, và New Zealand. Buổi bảo vệ nói trên đã thành công tốt đẹp.

 

Sáng 9 tháng 1 tôi thuyết trình tại Viện Vật lý. Trong số người nghe có giáo sư Pièrre Darriulat và giáo sư Phạm Duy Hiển. GS Darriulat là một người bạn của tôi kể từ khi tôi được gặp ông lần đầu tiên cách đây 7 năm. Chúng tôi có chung một nỗi bức xúc là làm sao những người Việt Nam trẻ tuổi do chúng tôi trực tiếp đào tạo không bị cái cơ chế hiện hành trong nước làm thui chột đi. GS Darriulat đã viết nhiều bài đầy tâm huyết nhằm cải cách tình trạng nghiên cứu và giáo dục tại Việt Nam. Tôi đã có hân hạnh được dịch một bài viết như vậy của ông ra tiếng Việt. GS Phạm Duy Hiển là người gần đây đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo tình trạng xuống cấp của nghiên cứu khoa học trong nước qua việc so sánh số lượng và chỉ số trích dẫn các công bố khoa học trong nước mà ông đã thống kê được với công bố của các nhà khoa học ở các nước láng giềng. Vì thế, sự hiện diện của hai ông cũng như của một số sinh viên trẻ tuổi và các đồng nghiệp trong nước tại seminar của tôi là một vinh dự đối với tôi.

 

Song, cái việc mà lúc đầu tôi tưởng như nằm trong chương trình ngoại khoá té ra lại trở thành hấp dẫn nhất trong chuyến đi ngắn này. Tôi muốn nói đến buổi nói chuyện với sinh viên ĐHMT Hà Nội sáng ngày 8/1/2009. Làm thế nào để chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ mà nêu được những gì quan trọng nhất, đúc kết từ lịch sử kỹ thuật vẽ sơn dầu trong suốt 5 đến 10 thế kỷ, lại còn thòng thêm cái đuôi 30 năm kinh nghiệm của bản thân? Để có 2 giờ đồng hồ ấy tôi đã chuẩn bị đúng một tháng. Tôi đã được toại nguyện: Buổi nói chuyện có khá đông sinh viên mỹ thuật, hoạ sĩ và những người quan tâm tới nghe. Người nghe ngồi kín hội trường. Một số phải đứng vì ghế không đủ. Điều quan trọng là họ đã nghe từ đầu đến cuối. Sau khi kết thúc nói chuyện, tôi còn trả lời khá nhiều câu hỏi từ phía người nghe. Vì thế buổi nói chuyện bắt đầu lúc 9 giờ sáng, chỉ thực sự kết thúc vào khoảng 12 giờ 30 phút. Theo lời ban tổ chức, đây là một trong số rất ít buổi nói chuyện tại ĐHMT Hà Nội có nhiều người tự nguyện nghe cho đến phút cuối cùng. Điều đó chứng tỏ rằng đề tài, nội dung, và diễn giả đã “gãi đúng chỗ ngứa” của người nghe.

 

 

  1. Không học (ĐH) Mỹ thuật là lựa chọn của anh? Anh cảm thấy mình có hạn chế nào trong sáng tác khi không theo học trường lớp chính quy?

 

NĐĐ:

Cách đây hơn 50 năm, sau khi Pháp thua tại Điện Biên Phủ năm 1954, bố mẹ tôi – khi đó đang du học ở Pháp -  đã làm một sự lựa chọn giữa về nước hay ở lại. Họ đã chọn về nước để sống, để cống hiến, v.v. Bốn năm sau đó tôi ra đời. Khác với bố mẹ tôi, tuổi thơ của tôi, nếu như không nói là hoàn toàn không có sự lựa chọn, thì cũng rất ít sự lựa chọn. Tuy thích vẽ và được nhiều người lớn trầm trồ khen là vẽ giỏi từ khi mới lên 5 - 6 tuổi, tôi đã chọn vật lý. Lựa chọn này không đơn thuần chỉ do thiên hướng, mà vào thời đó, đây là cách duy nhất để tôi có thể ra nước ngoài học tập. Cũng như bố mẹ tôi, lựa chọn đó đã thay đổi hoàn toàn tương lai của tôi.

 

Tôi không thể nói là liệu tôi có tự do hơn hay bị hạn chế hơn nếu tôi ghi tên theo học một trường mỹ thuật nào đó. Điều này cũng tương tự như hỏi một người ăn rau bẩm sinh về sự hạn chế hay không hạn chế khi họ không bao giờ ăn thịt. Có một điều chắc chắn rằng, quá trình đào tạo tại các đại học tiên tiến chủ yếu cũng vẫn phải dựa vào tự học của sinh viên (tự đọc sách, tự thực hành, tự nghiên cứu, …). Giảng viên, dựa vào kiến thức và kinh nghiệm của mình, chỉ đóng vai trò hướng dẫn, gợi ý. Họ có thể lôi con ngựa đến bờ sông nhưng không thể bắt nó uống nước! Một nền giáo dục đại học tốt phải tạo được cho sinh viên một phương pháp để tư duy độc lập, chứ không phải nhồi nhét cho họ những kiến thức đã cũ mèm, cứng nhắc, nhiều khi sai lạc, mà họ buộc phải nhắc lại như những con vẹt để được tốt nghiệp, mặc dù trong thâm tâm họ không hiểu hoặc chẳng tin gì những điều họ bị nhồi sọ.

 

Riêng với ĐHMT Hà Nội thì khi tôi chuẩn bị bài nói chuyện ngày 8/1, để tránh lắp lại những gì sinh viên có thể đã được học, tôi có đề nghị Ban Mỹ thuật Hiện đại cũng như một số hoạ sĩ đầy kinh nghiệm trong nước gửi cho tôi mục lục chương trình dạy lịch sử và kỹ thuật vẽ sơn dầu của ĐHMT Hà Nội. Câu trả lời khiến tôi thực sự hơi bị “sốc”: Chương trình như tôi nói hiện nay chỉ đang nằm trong ý đồ dự thảo xây dựng của ĐHMT Hà Nội - một đại học hàng đầu về mỹ thuật của quốc gia, được thành lập cách đây hơn 80 năm! Sau buổi nói chuyện, một hoạ sĩ trẻ nói với tôi là cậu ta đón nhận những điều tôi nói hôm đó như nước đối với người khát. Cậu ta nói, tuy mang tiếng vừa tốt nghiệp ĐHMT Hà Nội, song chỉ mãi gần đây cậu mới được biết rằng sơn dầu có màu trong và màu đục. Khi tôi hỏi vậy thì người ta dạy cái gì về lịch sử và kỹ thuật sơn dầu trong trường, cậu trả lời rằng sinh viên cứ việc mua toile, màu, bút lông rồi mạnh ai người nấy vẽ. Thầy giáo đến nhìn, ai biết gì thì nói nấy, chẳng theo một giáo trình, hệ thống nào cả. 

 

 

  1. Anh có thể cho biết quá trình và phương pháp tự rèn luyện về hội họa của mình?

 

NĐĐ:

Tôi thích vẽ từ khi lên 4 – 5 tuổi gì đó. Bố mẹ tôi thường kể lại là hồi đó tôi hay dùng phấn đứng vẽ hàng giờ không chán lên cái bảng đen ở nhà tôi. Bố tôi là người thầy dạy vẽ đầu tiên của tôi. Ông vẽ rất giỏi song chưa bao giờ là hoạ sĩ. Ông cũng là người đầu tiên dạy tôi tiếng Pháp, tiếng Anh, toán, vật lý, và gợi cho tôi niềm hứng thú tới âm nhạc, văn chương phương Tây. Nói tóm lại, ông là trường học lớn đầu tiên của tôi. Lớn lên một chút bố mẹ tôi cho tôi đi học vẽ tại các xưởng hoạ, câu lạc bộ, trường nghệ thuật. Tuy nhiên, sự học này thường bị gián đoạn bởi chiến tranh: tôi đã phải sơ tán về nông thôn 5 năm từ năm lên 6 tuổi đến 11 tuổi mới quay về sống tại Hà Nội, sau đó lại phải sơ tán lần thứ hai mất gần 1 năm nữa khi Mỹ ném bom Hà Nội trở lại vào năm 1972. Cũng khoảng thời gian đó tôi đã vẽ bức sơn dầu đầu tiên. Tôi thực sự chuyên tâm vào sơn dầu từ năm 1976 sau khi tôi sang Nga học vật lý tại Đại học Quốc gia Maxcơva. Từ đó đến nay tôi vẽ sơn dầu đã hơn 30 năm.

 

Phương pháp tự rèn luyện của tôi có thể tóm tắt như sau: Tôi tự học hội hoạ qua sách vở mà tôi có thể đọc bằng 4 thứ tiếng Nga, Anh, Pháp, và Italia. Tôi có may mắn là công việc nghiên cứu trao đổi khoa học cho tôi cơ hội đi khá nhiều nước. Vì vậy tôi đã được xem các tác phẩm gốc tại hầu hết các bảo tàng nổi tiếng trên thế giới từ Á sang Âu và Mỹ. Để thực hành kỹ thuật vẽ cổ điển tôi đọc được, tôi đã chép lại một số bản sao các tác phẩm của các danh hoạ thời Phục Hưng và Baroque. Qua đó, dần dần trong khi vẽ, tôi tạo ra và hoàn thiện kỹ thuật của riêng mình. Bên cạnh đó văn chương và âm nhạc cũng đóng góp cho việc hình thành một ý tưởng, thậm chí một cách giải quyết trong bố cục.

 

 

  1. Anh có thể lý giải bí quyết chinh phục nhiều lĩnh vực (ngoại ngữ, âm nhạc...) trong khi quỹ thời gian của anh cũng chỉ như mọi người?

 

NĐĐ:

Có lần, sau khi nghe tôi nói chuyện về tranh của mình ngay sau thuyết trình của tôi về vật lý tại Trung tâm Vật lý Tương tác Cơ bản tại Lisbon, một nhà vật lý đã thốt lên: “Chắc ông làm việc 25 giờ mỗi ngày!” Bí quyết có lẽ đó là niềm say mê. Khi bạn say mê một cô gái bạn luôn tìm ra thời gian để đến với cô ta. Khoa học, nghệ thuật, ngoại ngữ v.v. còn hay là ở chỗ những thứ đó không đỏng đảnh và không bao giờ phản bội bạn. Bạn cống hiến cho chúng nhiều thì cũng sẽ nhận được nhiều, rất sòng phẳng. Một điểm nữa là những quyết định nhanh thường đến do trực giác cho dù sau đó trực giác phải được kiểm tra lại để thấy nó đúng hay sai. Cuối cùng kỷ luật làm việc đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả. Ví dụ không thể nào chơi piano giỏi nếu không luyện tập thường xuyên, ít nhất 1 - 2 tiếng mỗi ngày.

 

 

  1. Anh còn đam mê gì khác mà không/chưa theo đuổi được vì thiếu thời gian chẳng hạn?

 

         NĐĐ:

         Chắc là không, vì nếu có tôi đã tìm ra thời gian cho nó rồi.

 

 

  1. Nếu anh toàn tâm toàn ý vào nghiên cứu vật lý hoặc vẽ, anh có nghĩ mình sẽ đạt được những thành tựu tầm cỡ hơn?

 

         NĐĐ:

  Bạn có nghĩ là nếu Leonardo da Vinci chuyên tâm vào hội hoạ thì ông sẽ vẽ được những bức tranh hay hơn không? Tôi không chắc. Nguyên thần đồng piano Evgeny Kissin từng nói: “Nếu một nghệ sĩ piano tập đàn quá 4 tiếng mỗi ngày thì chỉ có thể có 2 khả năng: một là người đó không có tài, hai là người đó không còn việc gì khác để làm ngoài việc chơi piano.” Tôi cho rằng sự am hiểu nhiều lĩnh vực    góp phần nâng cao thêm hiệu quả cho hoạt động trong từng lĩnh vực. Trí tưởng tượng trong hội họa và âm nhạc chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong tư duy về vật lý, tuy nhiên cụ thể như thế nào thì khoa học đương thời vẫn chưa hiểu được tường tận. Chính tài vẽ và tư duy hội họa của Leonardo đã giúp ông thiết kế những máy móc vượt xa thời đại ông. Hoặc nói một cách khác, cái tinh hoa trong con người ông đã phát tiết ra mọi lĩnh vực hoạt động của ông.

 

 

  1. Nếu nói hội họa là cách thư giãn, giải tỏa của nhà vật lý trong anh - anh có đồng ý không? Tại sao? Ngược lại, vật lý đã gợi hứng cho anh vẽ tranh như thế nào?

 

NĐĐ:

Tôi nghĩ rằng mình có cái may là được trời ban cho một số niềm say mê, và từ đó là khả năng. Vì thế tôi làm mọi việc trong vật lý hay hội hoạ là để thoả mãn sự đam mê và trí tò mò của mình. Tôi không quan tâm lắm tới những cách gọi “nhà nọ” “nhà kia”. Tôi nghĩ khó phân biệt rạch ròi các ảnh hưởng bạn nói trong tư duy con người. Việc tôi không nghĩ đến vật lý trong khi tôi vẽ  hoàn toàn không có nghĩa là trong vô thức không có một mối liên hệ nào đó đang hoạt động, mà ngược lại mối liên hệ này có thể rất quan trọng như tôi đã trả lời trong câu trước.

 

 

  1. Anh có cảm giác gì khi lần đầu nghe người ta gọi mình là thiên tài? Và cảm giác bây giờ của anh?

 

NĐĐ:

Lần đầu đó đã xảy ra quá lâu rồi, từ khi tôi còn bé. Bây giờ tôi không nhớ nữa. Sau đó, người ta đã gọi tôi như vậy vài lần, bằng vài thứ tiếng khác nhau. Vì thế, khi giáo sư Akito Arima, nguyên bộ trưởng văn hoá giáo dục Nhật Bản, trịnh trọng tuyên bố: Ông Đăng là một thiên tài! trước khoảng 100 người tới dự buổi khai mạc triển lãm cá nhân đầu tiên cửa tôi tại Nhật Bản vào năm 2001, tôi cũng không có cảm giác gì đặc biệt. Có lẽ lúc đó tôi đang chú ý đến tài diễn thuyết của giáo sư Arima: mặc dù ông nói một lúc cả 2 thứ tiếng (Anh và Nhật), mà lại nói rất chậm rãi, song chỉ sau khi ông kết thúc, thính giả mới thấy rằng 2 phút phát biểu của ông chứa đựng rất nhiều thông tin.

 

Bây giờ, tôi đã ở tuổi ngũ tuần, tức là đã rút được nhiều kinh nghiệm từ những cái ngu ngốc của mình, và tôi cho rằng tôi đang luyện cho mình sự bình tĩnh trước mọi thành công hay thất bại, trước mọi lời khen chê, tán dương hay dè bỉu. Tại buổi nói chuyện với sinh viên ĐHMT Hà Nội, tôi đã nhắc lại lời của giáo sư Arima: “Nếu bạn tin vào điều mình đang làm thì đừng bao giờ từ bỏ nó, ngay cả khi bị người khác chỉ trích.”

 

                             

  1. Anh có thể giới thiệu đôi chút về gia đình mình? Anh có cảm thấy các thành viên trong gia đình chịu một sức ép nào đó trước những đam mê và kể cả danh tiếng mà anh đạt được? Nếu có, anh làm gì để họ cảm thấy thoải mái hơn?

 

NĐĐ:

Bố tôi năm nay 87 tuổi, bị bệnh đã lâu, hiện không đi lại được, nhưng vẫn nhận ra tôi khi tôi về thăm. Mẹ tôi năm nay 85 tuổi. Tôi có một anh và một chị. Gia đình của họ sống cạnh bố mẹ tôi ở Hà Nội. Tất cả anh chị ruột và dâu rể đều tốt nghiệp đại học và hiện là công chức nhà nước. Anh trai tôi là tiến sĩ về máy chính xác. Con cái họ cũng đều du học ở ngoại quốc. Tôi nghĩ rằng những việc tôi làm không có ảnh huởng gì xấu đến bố mẹ và anh chị tôi cùng gia đình họ. Bố tôi, khi ông còn tỉnh táo, thường rất tự hào về tôi. Còn tôi rất biết ơn và tự hào về bố mẹ tôi. 

 

 

  1. Có thể coi anh là kết quả thành công của một phương pháp giáo dục tại gia đình từ lứa tuổi nhỏ? Anh đã được giáo dục đặc biệt như thế nào? Đường lối giáo dục con cái của anh hiện nay?

 

NĐĐ:

Bố mẹ tôi đều từng là trí thức tu nghiệp tại Pháp. Vì thế, tôi có may mắn là từ nhỏ đã được tiếp thu một nền giáo dục mang đậm ảnh hưởng của văn chương, lịch sử, nghệ thuật, âm nhạc phương Tây từ bố mẹ mình. Bố mẹ tôi dạy các con như nhau, không thiên vị ai. Ngoài học ở trường, tất cả ba anh chị em chúng tôi đều được học piano, học vẽ từ bé. Chúng tôi không hề bị ngăn cấm thể hiện ý nghĩ của mình bằng lời nói trong gia đình. Bố mẹ tôi thường thảo luận việc nhà với con cái. Vì thế, sinh hoạt trong gia đình tôi khá dân chủ ngay từ khi tôi còn nhỏ.

 

Sau này tôi cũng dạy con trai tôi như vậy. Dân chủ và tự do tư tưởng là đường lối giáo dục con cái của tôi. Vợ chồng chúng tôi thường xuyên nói chuyện với con về tất cả mọi điều xảy ra. Không có đề tài cấm kỵ hay tế nhị trong đối thoại. Chúng tôi không dùng sự sợ hãi để dạy con. Con trai tôi từng nhận xét rằng hai bố con tôi đối thoại về nhiều vấn đề như hai người bạn. Đổi lại chúng tôi nhận được từ con mình tình yêu và lòng kính trọng. Tôi không mong gì hơn thế. Từ lớp 1 đến khi vào đại học cháu học ở Nhật. Nền giáo dục phổ thông cuả một xã hội văn minh, dân chủ và phát triển hơn Việt Nam rất nhiều lần không vì thế mà không có những vấn đề riêng, đòi hỏi sự quan tâm phối hợp của cả nhà trường lẫn gia đình. Học sinh ở Nhật chịu sức ép rất lớn để học thi vào các trường tốt, để sau này dễ tìm việc ở các công ty tốt. Tôi không chia sẻ triết lý thực dụng đó. Mặt khác tôi thấy hệ thống giáo dục đại học cuả Nhật, tuy là tốt hơn Việt nam rất nhiều, vẫn mang nặng tính hình thức và nặng về tiếp thu thụ động. Trong khi đó, tôi luôn cố dạy con trai tôi hiểu rằng độc lập tư duy và thực tài mới là quan trọng chứ không phải cái danh hão. Ngoài các giờ học ở trường, cháu còn học chơi piano 13 năm, võ aikido 9 năm và được nhận đai đen về aikido khi 18 tuổi. Lúc cháu chuẩn bị vào đại học, chúng tôi để cháu tự tìm hiểu và tự chọn ngành, chọn trường phù hợp với ý thích và khả năng của cháu. Hiện nay cháu là sinh viên năm thứ 2 ngành kiến trúc. Tuy học kỳ nào cháu cũng nằm trong danh sách các sinh viên được đại học khen vì kết quả học tập, cháu vẫn có nhiều bạn bè và vẫn tham gia những sinh hoạt ngoại khoá bổ ích. Cháu sử dụng được 3 thứ tiếng: Nhật, Anh, tiếng mẹ đẻ - Việt, và chỉ thấy bánh chưng ngon khi được chấm với nước mắm.

 

 

  1. Nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của anh?

 

NĐĐ:

Bố mẹ tôi, và Leonardo da Vinci.

 

 

  1. Anh đang quan tâm tới xu hướng/trường phái hội họa, họa sĩ nào trên thế giới (và có thể cả ở Việt Nam)? Vì sao?

 

NĐĐ:

Tôi thường theo dõi các thông tin xảy ra trong hội họa trên thế giới hiện nay qua internet và các triến lãm tại Tokyo, song không thực sự quan tâm đến một xu hướng hay cá nhân cụ thể nào. Lý do là vì những gì đang diễn ra trong nghệ thuật đương đại không gây cho tôi bất cứ một hứng thú nào hết. Tôi nghĩ những hoạt động hay “tác phẩm” với mục đích chủ yếu chỉ nhằm tạo danh tiếng và hiệu quả thương mại cuối cùng sẽ là những thứ vô giá trị nghệ thuật. Tiếc thay đó là trào lưu phổ biến trong nghệ thuật đương đại.

 

Các bậc thầy hội hoạ cổ điển và cuộc sống mới là nguồn không bao giờ cạn giúp tôi hoàn thiện nghệ thuật của mình.

 

 

  1. Anh nghĩ sao về những loại hình nghệ thuật đương thời như trình diễn, sắp đặt, nghệ thuật video..? Anh thấy chúng có gì chung với nghệ thuật mà anh đang theo đuổi?

 

NĐĐ:

Tôi đã từng xem một số trình diễn, sắp đặt, video art khá hấp dẫn. Chúng chẳng dính gì đến hội hoạ và người sáng tạo ra chúng chẳng hề dùng bút để vẽ (trừ khi phải làm động tác … giả vờ vẽ). Vì thế đừng nên gọi họ là “hoạ sĩ” mà gọi là “nghệ sĩ” thì hơn. Không phải tất cả những cái đó là dở. Danh họa lãng mạn Pháp Eugène Delacroix (1798 –1863) từng nói: “Mục đích cuối cùng của mọi nghệ thuật là ấn tượng nó gây ra”. Như vậy, cũng như hội họa, thành công của một tác phẩm trình diễn, sắp đặt, hay video art phụ thuộc vào cái ấn tưng hay hiu quả đó đối với người xem.

 

 

  1. Anh có chịu sức ép  phải đưa ra cái mới trong tranh của mình (hoặc sức ép khi bị coi là giống người đi trước)? Anh đã giải quyết sức ép đó như thế nào?

 

NĐĐ:

Việc đưa ra cái mới trong nghệ thuật hay khoa học là yêu cầu dĩ nhiên đối với một nghệ sĩ hay nhà khoa học. Nếu không bức tranh hay công trình nghiên cứu của anh sẽ vô giá trị. Cái mới nhiều hay ít phụ thuộc vào tài năng, kiến thức và kinh nghiệm của người sáng tạo ra tác phẩm hay công trình. Vì thế không thể ép cái mới nảy sinh, mà chỉ có thể tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nó có thể xuất hiện. Tôi cho rằng cái mới chỉ được hình thành dựa trên sự kế thừa. Mà muốn kế thừa đuợc thì phải hiểu biết sâu sắc những gì tinh túy mà tiền bối đã đúc kết lại. Mặt khác, cái mới ở trong chính bản thân ta và trong cuộc sống xung quanh ta. Mỗi cá nhân đều có những đặc biệt không giống bất kỳ ai khác. Điều đó giúp tạo nên phong cách riêng trong nghệ thuật.

 

 

  1. Theo anh, Nhật Bản có hấp lực gì đối với người tài đến vậy? (Vì ít ra Việt Nam cũng có hai nhân vật là anh và Đặng Thái Sơn định cư tại Nhật).

 

NĐĐ:

Để có câu trả lời đầy đủ mời bạn đọc bài “Cuộc sống Nhật dưới mắt người Việt” của tôi  đã đăng tại Người Viễn Xứ cách đây 5 năm.

 

Còn đây là câu trả lời ngắn gọn: Nhật Bản biết đối xử tử tế với người tài. Ở Nht người tài được trọng dụng, và trả lương cao. Nhật Bản là nưc có luật pháp rõ ràng, mọi ngưi bình đng trưc pháp lut và không có bất cứ một cơ quan, tổ chức, đảng phái nào có thể vin vào bất cứ lý do gì để được phép tự cho mình cái quyền đứng trên pháp luật. Không ai xâm phạm quyền tự do biểu hiện của người khác. Đó là quyền tự do cao nhất của con người trong xã hội văn minh. Điều 21 trong Hiến pháp cuả Nhật đảm bảo hoàn toàn không có bất cứ một sự kiểm duyệt nào đối với quyền tự do biểu hiện của mỗi người dân. Vì vậy, ở Nhật không có bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào có quyền bắt bạn cắt xén sáng tạo của bạn, hoặc ngăn cấm bạn triển lãm hay in ấn tác phẩm của mình vì những gì bạn viết hoặc vẽ ra trong tác phẩm của bạn. Nếu có tranh chấp liên quan xảy ra, thì cả hai phía: phía muốn kiểm duyệt và phía tác giả hoặc nhà xuất bản đều bình đẳng trước pháp luật, tức là đều có quyền mời luật sư và giải quyết tranh chấp tại tòa án.

 

Một đính chính nhỏ: Đặng Thái Sơn không định cư tại Nhật. Anh là công dân Canada, một quốc gia cũng biết đối xử tử tế với nhân tài. Trên thế giới có không ít các quốc gia như vậy. Người tài như những con chim: đất lành thì chim đậu.

 

 

  1. Anh suy nghĩ gì khi đưa những motif Nhật Bản vào tranh? Phải chăng vì anh không ở trong nước nên không thể đưa vào tranh mình nhiều hơn và sâu sắc hơn những yếu tố Việt Nam?

 

NĐĐ:

Tôi đưa vào trong tranh những gì tôi trải nghiệm trong cuộc đời của tôi. Trong tranh của tôi không chỉ có áo dài Vit Nam, kimono Nht Bản, bánh dày giò chả Hà Nội, mà còn có cả các vũ công x Florence, các con thuyn trên b vịnh Napoli, giăm-bông Ibérico, v.v. Tôi không bao gi nghĩ rng tôi phải vẽ những yếu tố Việt Nam chỉ vì tôi là người Việt Nam. Song, mặt khác, sống ở nước ngoài, kỷ niệm cộng với những đau đớn và bức xúc của tôi trước những “yếu tố” Việt Nam mà tôi hàng ngày hàng giờ thấy và đọc được trên internet đã khiến Việt Nam đi vào các bức tranh của tôi một cách tự nhiên như trong các bức tranh "Ngày trưởng thành ”, “Hà Nội ám ảnh”, “Phút cuối cùng của thành cửa Bắc”, “ Ký ức”,  Nỗi nhớ”, v.v.

 

 

  1. Anh suy nghĩ sao về xu thế toàn cầu hóa trong văn hóa và nghệ thuật hiện nay?

 

NĐĐ:

Tôi tin rằng một tác phẩm có giá trị cao, bất kể đó là hội họa, văn chương, hay âm nhạc, phải đạt được tính toàn cầu, tức là phải chứa đựng những giá trị chung của toàn nhân loại. Đối với những nghệ sĩ đã trải nghiệm nhiều nền văn hoá khác nhau qua chính cuộc sống hàng ngày và học vấn của mình, thì sẽ là một điều thực sự ngớ ngẩn và nhảm nhí khi nói về tính dân tộc trong sáng tạo của họ. Một cậu bé có bố là người gốc Pháp, mẹ là người gốc Việt, sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ, nếu trở thành nghệ sĩ thì tính dân tộc của cậu ta sẽ nằm ở đâu? Đừng quên rằng số người như vậy trong thế giới phẳng ngày nay đang ngày càng nhiều.

 

 

  1. Anh nói người xem nhìn vào tranh của anh sẽ thấy có câu chuyện gì đó trong khi chính anh cũng không rõ là chuyện gì. Vậy việc anh sắp xếp vật này cạnh vật kia trong tranh là do vô thức? Phải chăng anh chỉ cần một hình thức dễ coi để thể hiện kỹ thuật của mình? Anh có thể cho một số ví dụ cụ thể về lý do của những sắp đặt trong tranh của anh?

 

NĐĐ:

Mỗi bức tranh của tôi thường được bắt đầu khi tôi tìm thấy ý tưởng nghệ thuật gây ấn tượng cho chính bản thân tôi. Chỉ có như thế tác phẩm mới có thể gây ấn tượng cho người khác. Vì thế tôi thường mất nhiều thì giờ suy nghĩ để nảy ra những ý tưởng như vậy. Song cũng có khi ý tưởng đến bất chợt như việc tôi nhìn thấy một con quạ chết trên đường đi đã đưa đến sự ra đời của bức tranh “Phút cuối cùng của thành cửa Bắc”. Khi Lưu Bang lên ngôi hoàng đế Hán Cao Tổ vào năm 203 TCN có “quạ vàng bay bổng tuyệt vời mây xanh”. Vì thế con quạ chết gợi cho tôi một tưng trưng cho s suy vong. Hoặc khi tôi vẽ bức tranh “Lối ra”, trong một lần đi ra khỏi cửa xe điện ngầm ở Tokyo, tôi chợt nảy ra ý tưởng vẽ cái đuôi áo cô dâu kéo lê dưới đất rồi biến thành một cái đàn đại dương cầm, như thể đuôi áo đang kéo theo cái đàn - sự nghiệp và mơ ước nghệ thuật của cô dâu. Trong bức “Ngày trưởng thành”, tôi dùng quy tắc vàng vẽ một bố cục với xương sọ của 12 con giáp làm thành một vòng tròn, tâm của vòng tròn trùng với mắt phải của con trai tôi. Một đàn người đi xe máy làm thành đường chân trời. Những ẩn dụ trong bức tranh được phản ánh một phần trong bài thơ cùng tên do tôi viết.

 

Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng, bức tranh sau khi hoàn thành sẽ tự dưng tồn tại một cách độc lập, như một thực thể sống. Cái bí ẩn và khó bậc nhất của hội hoạ là cái hồn của tác phẩm. Tác phẩm chỉ trở thành kiệt tác khi cái hồn đó toát ra. Đó chính là câu chuyện không kể được bằng lời trong mỗi bức tranh mà người xem, tùy theo trình độ và trải nghiệm của mình có thể cảm nhận được theo cách riêng của họ. Câu chuyện đó không nhất thiết phải giống nhau. Ngôn ngữ hội hoạ chính vì vậy mà rất đa nghĩa.

 

 

  1. Tần suất bán tranh của anh thế nào? (Nếu được anh có thể cho biết mức giá tranh của anh?) Tiền bán tranh liệu có đủ chi trả cho cuộc sống của anh nếu anh không tiêu đến lương nghiên cứu vật lý? Hoặc nếu anh bỏ hẳn công việc của nhà vật lý thì anh hoàn toàn sống được bằng hội họa?

 

NĐĐ:

Tôi không quan tâm tới việc bán tranh vì tôi vẽ không phải để bán, tuy rằng thỉnh thoảng tôi cũng bán vài bức. Giá tranh của tôi phụ thuộc vào từng tác phẩm cụ thể. Vì thế nếu bạn hỏi giá bức tranh mới nhất của tôi, bức “Biến thái” (sơn dầu trên toile kích thước 60 x 73 cm), chẳng hạn, câu trả lời của tôi là khoảng 4 ngàn USD. Tuy nhiên, nếu tôi không sống bằng nghề vật lý, mà phải sống bằng nghề vẽ thì chắc chắn tôi sẽ phải tổ chức “tiếp thị” tranh của tôi theo một cách khác. Hiện giờ tôi có may mắn là chưa phải làm như vậy.

 

 

  1. Một nghệ sĩ bậc thầy không mấy khi được công nhận lúc sinh thời. Điều này còn đúng trong hoàn cảnh hiện nay? Áp dụng vào trường hợp của anh?

 

NĐĐ:

Điều đó không đúng trong mọi thời đại. Nhiều bậc thầy từ thời Phục Hưng đến hiện đại như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael, Velasquez, Goya, Rubens, Rembrandt, Poussin, Ingres, David, Picasso, Chagall, Dalí v.v. đã rất nổi tiếng và được công nhận ngay khi còn sống. Bên cạnh đó có những người chỉ được đánh giá lại và đánh giá cao sau khi đã chết như Vermeer, Van Gogh, Gauguin, Modigliani, v.v.

 

Tôi không so sánh mình với các danh hoạ đó, song tôi thấy mình vẫn còn may vì, trong một chừng mực nào đó, cũng đã được công nhận. Ít nhất, việc một người chưa bao giờ từng học vẽ tại đại học mỹ thuật nay lại được mời thuyết trình về kỹ thuật vẽ sơn dầu tại một hoạ viện nổi tiếng bậc nhất Việt Nam là ĐHMT Hà Nội, và lại được sinh viên chăm chú lắng nghe từ đầu đến cuối, đối với tôi, đã là một sự công nhận đầy ý nghĩa.

 

Cảm ơn anh đã quan tâm trả lời câu hỏi.

Chúc anh một năm mới với nhiềư hứng khởi mới!