Nhà văn Việt
“Đối với
tôi điều lý thú nhất trong nghệ thuật là nhân cách
của nghệ sỹ;
và nếu nhân cách
đó xuất chúng, tôi sẵn lòng tha thứ cả ngàn lỗi
lầm.”
Như nhiều
người Việt Nam sinh ra cuối những năm 50 của
thế kỷ trước, tôi có một tuổi thơ trôi qua trong chiến tranh chống
Mỹ, có nghĩa là phải đi sơ tán, rất thiếu thốn
về vật chất, ăn cơm độn 70% bột
mì, da trâu thay thịt, và lá khoai lang thay rau xanh. Thời đó
dĩ nhiên là nông thôn và cả thành thị đều không có điện nói chi
đến TV, máy vi tính, trò chơi điện
tử, và internet như bây
giờ. Thời đó một trong những thú
vui của tôi là đọc sách. Tôi không thể
nhớ hết các sách tôi đã đọc. Tuy nhiên những
cuốn sách gây ấn tượng mạnh nhất trong thời
thơ ấu của tôi là: “Truyện cổ Grimm” của anh em Grimm (Hữu Ngọc
dịch),
“Những người khốn khổ” của Victor Hugo (bản
dịch của nhóm Lê Quý Đôn) và “Tam quốc diễn nghĩa”
của La Quán Trung (dịch giả Phan Kế Bính, hiệu
đính Bùi Kỷ). Tất cả đều là
văn học nước ngoài. Tiếp theo đó là một
loạt các tác phẩm khác, cũng của văn học
nước ngoài, như “Không gia đình” của Hector Malot, “Miếng da lừa” của Honoré de Balzac, kịch của Molière, kịch của Shakespeare,
“Iliad và Odyssey” của Homer, kịch
của Eschilles, “Don Quichotte” của Cervantes
v.v. Sau các tác phẩm văn chương vĩ đại
đó của nhân loại, văn học Việt Nam của
tất cả mọi thời kỳ (trừ một số ít tác phẩm thi ca) thực sự
không gây cho tôi một hứng thú gì đặc biệt…
…. cho đến năm 1989.
Lúc
đó công cuộc “đổi mới” ở Việt
Nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp
(ký họa bút chì của Nguyễn Đình
Đăng, 1990)
Từ đó hễ
có truyện ngắn nào của Nguyễn Huy Thiệp xuất
hiện là chúng tôi truyền tay nhau đọc kỳ hết,
với cảm giác như đọc truyện kiếm hiệp
của Conan Doyle, tức là
đã cầm lên là phải đọc một mạch từ
đầu đến đuôi. Sau đó là những
cuộc bàn luận của chúng tôi quanh bàn nước ở
Dubna, ở Maxcơva. Tới mức mà mỗi
khi nói đến văn học Việt
Tôi cũng
là một họa sỹ [1]. Mà đã là họa sỹ
thì hay vẽ chân dung tất cả những người mà
mình yêu và thích, bắt đầu từ bố, mẹ, anh,
chị, vợ, con. Sau đó đến bạn bè, người quen. Cuối cùng
là những người có tài mà mình ngưỡng mộ.
Vì thế, khi trở về Hà Nội vào tháng 1 năm 1990,
người đầu tiên tôi tìm gặp là Nguyễn Huy Thiệp
… để vẽ chân dung. Lúc này tôi đã đọc
khá nhiều truyện ngắn của anh như “Tướng
về hưu”, “Phẩm tiết”, “Vàng lửa”, tập “Những
ngọn gió Hua Tát”, v.v. - những tác phẩm ngày hôm nay không ai không thể không nhắc đến khi
nói về văn
học Việt Nam đương đại.
* * *
Tôi
không biết anh ở đâu nên chạy tìm anh khắp thành
phố. Cuối cùng một ông già trông xe
đạp trước
cửa một nhà phát hành sách giáo khoa của Bộ Giáo dục
nói với
tôi:
- Nguyễn Huy Thiệp chứ
gì? Ở Nhà xuất bản giáo dục 19 Lê Thánh Tông kia! Đâu có ở đây.
Trong một căn phòng chật hẹp, không
đủ ánh sáng, cửa sổ có song trông như cửa nhà
giam, một nhóm độ 4 – 5 người, trong đó có hai
đàn ông, đang cặm cụi làm gì đó như viết
hay vẽ. Một lát sau thì tôi biết được họ
đang can lại các hình vẽ cũ để in vào các tái
bản sách giáo khoa. Tôi hỏi anh Thiệp.
Một người đàn ông mặt đen,
trông như nông dân, ngửng lên. Tôi tự
giới thiệu. Té ra anh cũng nghe nói về
tranh của tôi. Như vậy rất tiện.
Tôi đề nghị vẽ chân dung anh. Người đàn
ông ngồi cạnh nãy giờ im lặng, đột nhiên nói
chen vào:
- Vẽ à? Vẽ ở
đây có được không?
Sau này có người nói với tôi là anh Thiệp
bị “người ta” kèm, giám sát. Mới
đầu tôi không tin. Nhưng những
việc mà tôi sẽ kể bên dưới này cho thấy không
phải tự dưng mà có những lời đồn đại
như vậy. Làm như không để ý đến câu nói
đó, anh Thiệp mời tôi xuống quán cà-phê bên kia đường. Người
Việt
- Tôi như người xẻ thịt con lợn,
chỉ moi lấy tim, còn tất cả thịt, xương,
lòng thì vứt đi.
Tôi hiểu cách nói và niềm
tự tin quá lộ liễu của anh Thiệp đã khiến
nhiều người cảm thấy bị xúc phạm. Tài năng của
một người thường kéo theo
sự ghen ghét của nhiều người khác. Người
khởi xướng trường phái hiện thực trong
văn học Anh nhà văn Henry Fielding (1707-1754) từng nói
đại ý: “Một số người bị người
khác chống lại vì có cái thứ mà nguời khác không có.”
(Nguyên văn: “Some folks rail against other folks, because other folks
have what some folks would be glad of.”). Cụ Nguyễn Du (1765 –
1820), sinh sau Fielding hơn nửa thế kỷ,
“khả
úy” hơn, đã tổng kết:
Có tài mà cậy chi
tài,
Chữ
“Tài” liền với chữ “Tai” một vần.
Tôi mời anh Thiệp đến
nhà tôi để vẽ các ký họa chuẩn bị bằng
bút chì. Tôi vẽ chi tiết chân dung anh, đôi tay,
hai bàn chân, toàn bộ dáng ngồi trong ghế bành. Tôi đến cả quán cà-phê nọ để vẽ
cái ghế mây thấp lùn anh Thiệp từng ngồi [2].
Phần còn lại của bố cục
bức tranh sơn dầu (kích thước 97 x 130 cm)
là tưởng tượng của tôi.
Phía sau anh, tôi vẽ các nhân vật từ các truyện ngắn
của anh, trong đó có vua Quang Trung đầu lộn xuống,
vua Gia Long mặt là hình người đàn bà khỏa thân dán
ốp lên, v.v. Ở
góc trên bên trái bức tranh, tôi vẽ chân dung các vĩ nhân
văn chương và văn hóa thế kỷ XIX
và XX, Victor Hugo, Sigmund Freud, Anatole France, Guy de
Maupassant, Alexander Soljenitsin, Fedor Dostoevsky, và Boris Pasternak - những
người mà tôi thấy có sự tương đồng
trong tác phẩm của họ và tác phẩm của Thiệp.
Các chân dung này hiện ra như những đám mây. Ở phía
bên phải tôi vẽ cảnh đoàn lạc đà đi trên
sa mạc với mấy con chó chạy
đằng sau: “Chó cứ sủa,
đoàn lạc đà cứ đi” (Les chiens aboient, la caravane
passe). Đàn lạc đà biến dần thành đàn chim bay lên trời.
Anh Thiệp ngồi trên ghế salon nhà tôi. Cái
ghế bay lơ lửng trên một bậc tam cấp làm bằng
đá hoa cương. Phải chăng đó là
bậc tam cấp lên đỉnh Parnasse [3]? Sóng
biển đập vào một phía bậc tam cấp.
Bên kia là đại dương mênh mông
đưa những gợn sóng dài và hùng vĩ đến một
bức tường đầy những lỗ đạn đang
rỉ máu. Dưới chân anh Thiệp ngồi tôi vẽ ếch
nhái, rắn rết, ốc sên, chuột cống có chân giống
như chân người…
Nguyễn
Đình Đăng
Giấc
mơ nghệ sỹ (Chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp)
sơn dầu
trên vải, 97 x 130 cm, 1990
Hồi
đó, mỗi khi tôi vẽ xong một bức tranh to, tôi
thường tổ chức một buổi gặp mặt
nhỏ tại phòng khách nhà tôi, mời một số họa
sỹ tới cùng uống rượu và ngắm
tranh. Trong số họ, có cả họa sỹ
Nguyễn Sáng và thi sỹ Trần Dần. Nhưng ba
vị khách thường hạ cố đến chơi là
Bùi Xuân Phái, Mai Văn Hiến, và Lê Huy Tiếp. Sau khi ông Phái qua đời (1988), ông Hiến và
anh Tiếp vẫn thỉnh thoảng tới nhà tôi.
Lần ấy, sau khi hoàn
thành “Chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp”, tôi cũng tổ
chức một buổi “vernissage” [4] như vậy.
Các vị khách đã đến đầy
đủ mà anh Thiệp vẫn không thấy tăm hơi.
Vào năm 1990 điện thoại (chứ
chưa nói điện thoại di động) chưa phổ
biến như bây giờ. Tôi chắc có
chuyện gì đó đã xảy ra với anh Thiệp. Mãi tới năm giờ chiều, sau khi khách khứa
đã về từ lâu, Nguyễn Huy Thiệp mới xuất
hiện. Lý do: Anh “được” công an
cho xe đến tận chỗ làm việc “mời” lên sở
hỏi một số việc.
Vào những
năm đầu 90, Thiệp là nhà văn thuộc loại
“có vấn đề”. Các truyện ngắn của anh gây nhiều
cuộc tranh cãi nóng bỏng trên văn đàn và báo chí Việt
Năm 1992 tôi nhận lời
mời Đại học Tổng Hợp Kỹ thuật
*
* *
Công việc nghiên cứu khoa học của
tôi khiến tôi ở ngoại quốc nhiều hơn ở
trong nước. Sau khi sang Nhật và làm việc
tại viện Nghiên cứu vật lý hóa học Nhật bản,
có lần tôi nghe nói anh Thiệp “không
bị bắt” (tôi chẳng rõ anh có tội gì để phải
bị bắt!), nhưng “hầu như không viết
văn”, “bỏ đi tu”, rồi sau đó lại nghe nói anh
“mở quán ăn” v.v. Mãi cho đến cách đây mấy
năm tôi mới lại thấy truyện của anh xuất
hiện: “Chuyện ông
Móng” với câu kết bất hủ: “Nghề hót phân trên
đời là nhất!”,
“Chuyện
tình kể trong đêm mưa”, v.v. Truyện ngắn nào
của anh tôi cũng thấy có những điểm rất
quý giá. Chúng như những viên kim
cương: nhỏ nhưng sáng chói, với
muôn vàn tia ngũ sắc tỏa ra khi ánh sáng chiếu vào. Kim
cương giả không làm sao sáng lấp
lánh được như những viên kim
cương thật vì giả thì bao giờ cũng là …giả.
Kể cả tập tiểu thuyết đầu tay của anh “Tuổi hai mươi yêu dấu”
tôi cũng đọc liền một đêm từ đầu
đến đuôi. Sau đó là “vụ” “Trò chuyện với
hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn”
với các bài viết đủ thượng vàng hạ cám
khen chê “tóe lửa” trên báo giấy và báo điện
tử. Anh Thiệp im lặng. Cho tới khi các bài “phê bình” đã chất đống,
đánh đùng một cái trên trang web các tác phẩm mới
chưa in của anh [6] xuất hiện vở kịch “Mổ
nhà văn”. Tôi đọc mà không nhịn được cười, thầm
phục cái tài trả lời rất cao thủ của anh. Văn
của anh Thiệp luôn là như thế, nó không để
cho người khác được “yên thân”.
Một nhà văn “lão làng” của Việt
Tôi
rất muốn gặp lại anh, sau bao nhiêu năm trời
xa cách…
Tháng 10 vừa qua, trong dịp
về nước dự hội thảo vật lý, tôi
đã gặp lại Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi hẹn nhau tại một tiệm ăn.
Hà Nội của thời kinh tế thị trường có
nhiều “độc
chiêu”. Tới khi cậu phục vụ giới
thiệu: “Nhà hàng chúng cháu có rau khoai lang
xào”, thì anh Thiệp kêu lên:
- Cả đời tao đã ăn
rau khoai lang rồi mà mày còn định
cho tao ăn nữa hay sao?
Cậu phục vụ còn rất
trẻ, gọi anh Thiệp bằng
bác. Có lẽ cậu không phải
trải qua cái thời kỳ khốn khó khi chúng
tôi phải ăn lá khoai lang thay rau. Bây giờ
lá khoai lang lại hóa ra là “đặc
sản”. Nhưng với tôi lá khoai lang mãi mãi vẫn chỉ là lá khoai
lang mà thôi. Chúng tôi lại nói chuyện say sưa. Tôi có cảm
giác như mười mấy năm xa cách đã bay biến
đâu mất. Anh Thiệp tặng tôi tuyển
tập truyện ngắn mới in của anh. Sách in đẹp, bìa cứng có hình minh họa của
cố họa sỹ Bửu Chỉ, gắn dây vàng để
đánh dấu [7]. Ở trang đầu anh Thiệp
ghi: “Thân mến tặng Nguyễn Đình Đăng.”
Bên dưới là chữ ký và dấu triện đỏ của
anh như ở bên Nhật vậy…
* * *
Bạn
đã đọc “Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt”
của Nguyễn Huy Thiệp chưa [
8 ]? Có
thể bạn đã đọc rồi, nhưng chắc có
ít bạn đọc nó trong khi đi trên tàu điện ngầm
ở
Nguyễn
Đình Đăng
_________
Chú giải:
*) Bài này đã được
đăng tại eVăn ngày 8/12/2004 – trang văn học của
VNExpress. Những đoạn
in màu đỏ trong bài là những phần
eVăn cho là “nhạy cảm” nên đã cắt
bỏ hẳn hoặc thay bằng từ khác.
Sau
đó (trích đoạn của) bài này cũng đã
được đăng tại tạp chí (giấy) Ngày Nay – cơ quan công luận
của hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam - số 24-2004 (15
– 30.12.2004), trang 14. Trong bản
đăng tại Ngày Nay ban biên tập
đã cắt bỏ toàn bộ khổ đầu tiên cũng
như phần liên quan đến bức tranh sơn dầu
“Giấc mơ nghệ sỹ (Chân dung nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp)”. Ngoài ra nhiều chi tiết khác cũng bị
cắt bỏ như các câu:
- “ Nhiều sách, bài viết, thơ phú, được xuất bản với nội dung mà trước đó nhiều năm, nếu công bố, có thể khiến cho tác giả của chúng phải ngồi tù hoặc lĩnh cái án vô hình không biết bao giờ mới được xóa."
-
“Mà đã là “fan” tức
là bỏ ngoài tai tất cả những gì người ta nói
nhằm hạ uy tín “thần tượng văn
chương” của mình.”,
-
“cửa sổ có song
trông như cửa nhà giam”,
-
“Người
đàn ông ngồi cạnh nãy giờ im lặng, đột
nhiên nói chen vào:
- Vẽ à? Vẽ ở đây có được
không?
Sau này có người
nói với tôi là anh Thiệp bị “người ta” kèm, giám
sát. Mới đầu tôi không tin.
Nhưng những việc mà tôi sẽ kể bên dưới này cho thấy không phải
tự dưng mà có những lời đồn đại
như vậy. Làm như không để ý đến câu nói
đó,”
-
“cảm thấy bị xúc phạm. Tài năng của
một người thường kéo theo
sự ghen ghét của nhiều người khác. Người
khởi xướng trường phái hiện thực trong
văn học Anh nhà văn Henry Fielding (1707-1754) từng nói
đại ý: “Một số
người bị người khác chống lại vì có cái
thứ mà nguời khác không có.” (Nguyên văn: “Some folks rail against other folks, because
other folks have what some folks would be glad of.”). Cụ Nguyễn
Du (1765 – 1820), sinh sau Fielding hơn nửa thế kỷ, “khả úy” hơn, đã tổng kết:
Có tài mà cậy chi
tài,
Chữ
“Tài” liền với chữ “Tai” một vần.
-“… “không bị bắt” (tôi chẳng rõ anh có
tội gì để phải bị bắt!), nhưng…”
-
“Kể cả tập tiểu
thuyết đầu tay của anh “Tuổi hai mươi
yêu dấu” tôi cũng đọc liền một đêm từ
đầu đến đuôi. Sau đó là “vụ” “Trò chuyện
với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà
văn” với các bài viết đủ thượng vàng hạ
cám khen chê “tóe lửa”
trên báo giấy và báo điện tử. Anh Thiệp im lặng. Cho tới khi các
bài “phê bình” đã chất đống, đánh đùng một
cái trên trang web các tác phẩm mới chưa in của anh [6]
xuất hiện vở kịch “Mổ nhà văn”. Tôi đọc mà không nhịn được cười,
thầm phục cái tài trả lời rất cao thủ của
anh.”
Ban Biên tập Ngày Nay không trao đổi với tác giả về những cắt xén này.
Nhân việc biên tập cắt xén nói trên,
xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc vở
kịch ngắn “Người
lính cứu hỏa” của Vladimir Polyakov.
[1] Xem triển
lãm tranh của Nguyễn Đình Đăng trên internet tại:
http://ribf.riken.go.jp/~dang/page1VN.htm
[2] Xem các ký họa chuẩn bị
cho “Chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp” trên internet tại:
http://ribf.riken.go.jp/~dang/dessins/NHThiep/Thiep_sketch.html
[3] Parnasse: theo thần thoại Hy lạp,
núi Parnasse là nơi ngự của thần Apollon và 9 nữ
thần là Calliope (cầm bảng viết) bảo hộ anh
hùng ca, Clio (cầm một cuộn giấy) - lịch sử,
Erato (cầm cây đàn lyre) – thơ tình, Euterpe (cầm cây
sáo) – âm nhạc, Melpomene (cầm mặt nạ đau khổ)
– bi kịch, Polyhymnia (có vẻ mặt suy tư) – thi ca thần
thánh, Terpsichore (nhảy múa với cây đàn lyre) – múa, Thalia
(cầm mặt nạ cười) – hài kịch, Urania (cầm
quả cầu bầu trời) – thiên văn.
[4] Vernissage (tiếng Pháp): nghĩa
đen là “quét dầu bóng”. Trước kia
từ này dùng để chỉ một ngày trước khai
mạc triển lãm. Trong ngày đó họa sỹ
phủ dầu bóng lên tranh và hoàn thành nốt những chấm
phá cuối cùng trước khi bức tranh ra mắt công
chúng. Ngày nay từ “vernissage” dùng để chỉ ngày
khai mạc bức tranh hoặc phòng triển lãm, khi họa
sỹ mời các bạn bè, khách khứa
của mình đến xem. Sau đó phòng tranh mới
chính thức mở cửa cho công chúng.
[5] Tác giả bài này chỉ còn giữ
được một số photocopy có thể thấy trên
internet tại: http://ribf.riken.go.jp/~dang/dessins/old_dessins/minhoa/minhoa.html
[6] http://nguyenhuythiep.free.fr/
[7] Nguyễn Huy Thiệp, Truyện
ngắn (Nhà xuất bản Trẻ & Cty Văn hóa
phương
[8] Nguyễn Huy Thiệp, Hạc vừa
bay vừa kêu thảng thốt, trong: Nguyễn Huy Thiệp - Truyện ngắn (Xem [3] ở
trên), trang 549.