Dưới đây là toàn văn bài trả lời phỏng vấn tác giả đọc lần đầu tiên vào ngày
13/11/2006 tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền, Hà Nội trước ống kính máy quay phim
của đạo diễn điện ảnh Trần Văn Thủy và cameraman Nguyễn Sĩ Bằng với sự hiện diện
của ông Nguyễn Lân Bình và một số khán giả xem triển lãm “13 tầm nhìn từ Nhật Bản”.
Nguyễn Đình Đăng
Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông
Nguyễn Văn Vĩnh)”
như thế nào?
Là một trong những người Việt Nam sống nhiều năm ở nước ngoài, tôi không khỏi
trăn trở mỗi khi nghĩ đến sự tụt hậu của quê hương so với các nước có nền kinh
tế và văn minh trên thế giới như Nhật Bản và Hoa Kỳ. Mỗi lần trăn trở như vậy,
tôi lại thấy rất cảm phục những tiền bối đã sớm nhìn thấy gốc rễ sâu xa của mọi
yếu kém của dân Việt nằm trong dân trí, và đã ra sức cống hiến tài năng và nhiệt
huyết của mình để nâng cao dân trí của Việt Nam, cho dù tiếng nói của họ khi đó
có thể chỉ là thiểu số, cho dù họ có thể bị đám đông xa lánh, hay bị đàn áp bởi
cường quyền. Cụ Nguyễn Văn Vĩnh là một bậc vĩ nhân như
vậy của Việt Nam.
Có thể nói người Việt Nam ta ngày nay đang dùng một thứ chữ viết mà nhờ nó họ
đã hoà nhập được rất nhiều với nền văn minh phương Tây, thoát ra khỏi nền độc
tài của văn hoá Trung Hoa, vốn có một lịch sử thống trị cả ngàn năm trên phần bắc
của dải đất hình chữ S. Chữ Quốc ngữ được sáng tạo ra ở Việt Nam lúc đầu là nhờ
công lao của các nhà truyền giáo Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha và Pháp. Nó
được đánh dấu chói sáng lần đầu tiên bằng sự xuất bản chính thức tại Rome cuốn Từ
điển Việt–La-Bồ của Alexandre de Rhodes (người Pháp) vào năm 1651. Từ đó
cho đến khi vua Khải Định chính thức ra chỉ dụ bãi bỏ hoàn toàn chữ Nho vào năm
1919, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt, rồi đến quyết định ngày 18
tháng 9 năm 1924 của toàn quyền Đông Dương Merlin đưa chữ Quốc ngữ vào dạy tại
3 năm đầu cấp tiểu học, người Việt Nam đã trải qua 3 thế kỷ để cái mới của chữ
Quốc ngữ và của nền văn minh phương Tây thắng cái hủ bại suy đồi của nền học vấn
bám vào chữ Trung Quốc và Nho giáo. Trong cuộc đấu tranh gian khổ đó, vai trò của
cụ Nguyễn Văn Vĩnh thật vô cùng lớn lao.
Xuất thân từ một gia đình nghèo, đông con, nhưng với tài năng và nghị lực phi
thường của mình, ông Nguyễn Văn Vĩnh đã từ một thằng nhỏ kéo quạt cho một lớp
đào tạo thông ngôn tại đình Yên Phụ, trở thành người đỗ đầu khoá học khi mới 14
tuổi (năm 1896). Từng là trợ lý đắc lực cho công sứ tỉnh Bắc Ninh, được Pháp
cho sang thăm triển lãm Marseilles, ông Vĩnh có cả một tiền đồ với quyền cao chức
trọng chờ đợi mình ở Đông Dương. Thế nhưng, kỹ nghệ in ấn và tự do báo chí ở
Pháp đã mở cho người thanh niên 24 tuổi một con đường khác. Trở về Việt Nam, ông
Vĩnh đột ngột từ bỏ nghiệp quan chức và chuyển sang làm báo tự do. Tờ Đăng Cổ
Tùng Báo do ông sáng lập năm 1907 khi ông mới 25 tuổi là tờ báo đầu tiên xuất
bản bằng chữ Quốc ngữ tại Bắc Kỳ. Sáu năm sau ông ra tờ Đông Dương tạp chí
với mục đích dạy dân Việt viết văn bằng chữ Quốc ngữ. Ông là người Việt Nam đầu
tiên dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp, và dịch các áng văn chương của
các đại văn hào Pháp như Corneille, La Fontaine, Hugo, v.v. sang tiếng Việt.
Tuy không phải là người theo đạo, nhưng cũng như Chúa
Jesus, ông Vĩnh đã vác thánh giá văn hoá đi trong suốt cuộc đời làm báo của
ông. Và cũng như Đức Chúa đã hy sinh chịu bị đóng đinh trên thánh giá để cứu rỗi
nhân loại lầm lỗi, ông Vĩnh cuối cùng đã chết năm 1936 trong một cuộc đi tìm
vàng ở Nam Lào, sau khi toà soạn của ông vỡ nợ. Ông chết trong một con thuyền độc
mộc trên một dòng sông ở Sepole, trong tay vẫn nắm chặt
cây bút và cuốn sổ với bài viết cuối cùng của ông. Ông đã chết trong lao động, chết sau khi đã dốc toàn bộ sức lực của mình cho
những gì mình say mê. Archimedes, Mozart, Chopin, Van Gogh, Gauguin, v.v. đều
đã chết như vậy: gục trên các công thức, trên bản thảo, trên đàn piano, hay trước
giá vẽ, v.v. Đó là cái chết của những vĩ nhân. Cụ Nguyễn
Văn Vĩnh quả là một vĩ nhân văn hoá của Việt Nam. Người
ta mới hiểu lý do của phút im lặng trang nghiêm của hàng ngàn người Việt Nam
trước ga Hàng Cỏ khi quan tài ông Vĩnh được đưa bằng xe lửa từ Lào về Hà Nội.
Như tất cả những người dân ở các nước văn minh khác, người Việt Nam biết kính
trọng những người có học, những đại trí thức, bởi họ hiểu tri thức là ngọn đèn
duy nhất giúp cho họ khỏi đi lầm đường hoặc từ bỏ những con đường sai lạc.
Tôi được nghe bố tôi kể về cụ Vĩnh từ khi tôi còn rất bé, khi sách giáo khoa lịch
sử của bộ giáo dục Việt Nam còn gọi cụ Vĩnh là bồi bút và Alexandre de Rhodes
là gián điệp của Pháp. Năm cuối cùng ở phổ thông, tôi được làm học trò về toán
của cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi đạt điểm cao trong kỳ thi vào đại học
năm 1975 và vì thế được đi học ở nước ngoài. Cuộc đời tôi nhờ
đó đã thay đổi hẳn. Tôi trở thành nhà vật lý và hoạ sĩ, được sống tại
các nước văn minh, được mời thuyết trình tại các trường đại học danh tiếng tại
Hoa Kỳ, châu Âu, châu Á, được bày tranh tại các viện bảo tàng và galleries của
Tokyo. Như vậy, tôi có thể nói, ngoài cái tinh hoa tôi được di truyền từ bố mẹ
tôi, cũng là những trí thức Tây học, biết đâu tôi cũng đã có diễm phúc được hưởng
một phần cái tinh thần của cụ Nguyễn Văn Vĩnh nhờ từng được làm học trò của
cháu cụ!
Trong một dịp về thăm nhà vào năm 2000 tôi được đọc những tài liệu khá chi tiết
về thân thế và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh do con trai của cụ, ông Nguyễn
Kỳ, bạn của bố mẹ tôi, sưu tầm. Câu
chuyện đầy huyền thoại về cái chết của cụ Vĩnh làm tôi đặc biệt xúc động.
Ngay lập tức tôi thấy lờ mờ hiện lên trước mắt bố cục.
Quay trở lại Tokyo, tôi bắt
tay vào phác thảo bức tranh. Trong tranh, ông Vĩnh nằm
dang tay theo phối cảnh như Chúa Jesus trong bức tranh
“Chúa Jesus chết” của Andrea Mantegna (vẽ cách đây hơn 5 thế kỷ), tức là nhìn từ
gót chân lên. Tôi vẽ ông lơ lửng giữa trời, một tay cầm
bút, một tay cầm tờ giấy. Đằng sau ông, trên nền trời tối đen là Alexander de
Rhodes mặc áo chùng màu trắng, màu của trí tuệ và trinh tiết, tay trái cầm thánh giá, tay phải đưa về phía trước như chỉ
đường. Bên dưới là cảnh một dòng sông tối om với một
con thuyền thúng nằm chỏng chơ trên bờ. Theo hình dung của tôi, xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ cũng âm u như một dòng sông đen, và văn hoá dân trí thì lênh đênh trôi dạt
như một con thuyền không bến. Trong cái đêm đen ấy chữ Quốc ngữ như một nguồn
ánh sáng mới thức tỉnh những con người trước đó còn đang bị u mê bởi nền Nho học
giáo điều nhồi sọ. Theo tôi chữ Quốc ngữ là biểu tượng xuất sắc
cho sự hoà hợp thành công hiếm hoi giữa phương Tây và phương Đông. Còn
thì như Kippling đã nói: “Đông là Đông, Tây là Tây, và hai phương không bao giờ
gặp nhau”. Số phận trớ trêu của lịch sử và địa lý đã đẩy dân tộc Việt Nam vào
thế bị kẹt và phải hứng chịu mọi bi kịch của những cuộc đối đầu: đối đầu giữa
hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, đối đầu giữa phương Tây và phương Đông, đối
đầu giữa hai hệ thống chính trị, v.v. Kết cục như thế nào thì chúng ta đã biết.
Một trong những niềm an ủi, nếu không nói là tự hào,
mà chúng ta nhận được sau những cuộc đụng độ ấy có lẽ là chữ Quốc ngữ.
Người mẫu cho cơ thể ông Vĩnh chính là tôi. Người mẫu
cho phần cơ thể mặc áo chùng của Alexander de Rhodes là con trai của tôi. Để đảm
bảo tính chính xác về chân dung, tôi đã dựa theo các
chân dung cũ của Alexander de Rhodes tìm thấy trên internet để vẽ khuôn mặt và
mũ của ông. Bức tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu Việt của ông
Nguyễn Văn Vĩnh)” đã được tôi vẽ như vậy .
Theo hiểu biết của tôi, đây là bức tranh đầu tiên và cho đến
giờ vẫn là duy nhất vẽ về Alexandre de Rhodes và cụ Nguyễn Văn Vĩnh như những
danh nhân văn hoá trong việc phổ biến chữ Quốc ngữ. Cách đây 2 năm tôi
nhận được thư của ông Nguyễn Lân Bình, cháu nội cụ
Nguyễn Văn Vĩnh. Ông Bình nói rằng ông và gia đình đã “rất xúc động” khi tình cờ
xem bức tranh này trên trang web của tôi. Ông còn nói ông và
gia đình “cảm nhận bức tranh này như một phần thưởng tinh thần to lớn với gia
đình ông”. Dịp về Hà Nội triển lãm “13 tầm nhìn từ Nhật Bản” cùng với 12
nghệ sĩ Nhật Bản tại Nhà triển lãm mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam tại 16
Ngô Quyền Hà Nội từ 8 đến 14/11/2006, trùng với lần giỗ thứ 70 của cụ Nguyễn
Văn Vĩnh. Vì thế tôi đã mang bức tranh này về trưng bày để công chúng yêu nghệ
thuật và các hoạ sĩ trong nước có thể thấy nguyên bản tác phẩm gốc, âu cũng là
một dịp bày tỏ niềm kính trọng và ngưỡng mộ của tôi trước một vĩ nhân văn hoá,
người đã góp phần rất lớn làm cho chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân
Việt ngày hôm nay.
Viết xong ngày 17/10/2006
(Nguyễn Đình Đăng, Hà Nội trong mắt tôi, Phụ lục)